Thực tế, không thể coi thường sức mạnh Hải quân của Việt Nam vốn được đánh giá là hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á với đội 6 tàu ngầm Kilo do Nga cung cấp, Quân chủng Hải quân có đầy đủ “5 sao biển” là không quân – hải quân, tàu ngầm, thủy quân lục chiến đánh bộ, tên lửa chống hạm, tàu mặt nước.
Việt Nam có lợi thế lớn về biển như thế nào?
Một trong những mục tiêu mà Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII ghi nhận là, đến năm 2045, Việt Nam sẽ trở thành cường quốc biển. Để làm được điều này, Việt Nam cần xây dựng cho mình một chiến lược thực sự toàn diện, với các tiêu chí cụ thể và bám sát hành động theo các tiêu chí đó.
Trong bài phân tích của mình, TS. Phạm Cao Cường, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu châu Mỹ chỉ ra nhiều lợi thế về biển của Việt Nam.
Theo đó, Việt Nam là nước có đường bờ biển dài đến 3.260 km, kéo dài từ Móng Cái (Quảng Ninh) tới Hà Tiên (Kiên Giang), với nhiều bãi biển đẹp. Đây là một lợi thế lớn cho Việt Nam trong việc thúc đẩy phát triển ngành du lịch.
Ngoài ra, Việt Nam cũng sở hữu vùng đặc quyền kinh tế lên tới 1 triệu km vuông với gần 3.000 đảo lớn, nhỏ, hợp thành tuyến bảo vệ, kiểm soát, làm chủ các vùng biển và thềm lục địa.
Cảng nước sâu cũng là một thế mạnh của Việt Nam. Những cảng nước sâu có giá trị có thể kể đến như Hòn Gai, Cái Lân, Nghi Sơn, Hòn La, Vũng Áng, Chân Mây, Dung Quất, Văn Phong, Cam Ranh, Thị Vải, Vũng Tầu, Hòn Chông với nhiều điểm cảng trung bình như Hải Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang…, Tổng sản lượng hàng hóa vận chuyển mỗi năm qua những cảng nước sâu này có thể lên tới 50 triệu tấn.
Với Việt Nam, ý nghĩa quan trọng của Biển Đông không chỉ nằm ở phương diện kinh tế mà còn trong vấn đề chiến lược.
Biển Đông có nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng với khoảng 160.000 loài. Theo ước tính, trữ lượng động vật biển có thể đạt 32,5 tỷ tấn, trong đó lượng cá chiếm tới 86%, vào khoảng 5 triệu tấn/năm, mỗi năm có thể đánh bắt khoảng 2,3 triệu tấn.
Biển Đông cũng là nơi có trữ lượng dầu khí rất lớn, ước chừng 7 tỷ thùng, với khả năng sản xuất khoảng 2,5 triệu thùng/ngày (theo Bộ Năng lượng Mỹ). Trong khi đó, Trung Quốc ước tính, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông vào khoảng 213 tỷ thùng, trong đó chỉ riêng khu vực quần đảo Trường Sa đã có trữ lượng vào khoảng 105 tỷ thùng.
Vùng biển và ven biển Việt Nam có vị trí quan trọng về mặt chiến lược, nằm trong tuyến hàng hải và hàng không thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa Thái Bình Dương sang Đại Tây Dương, giữa Châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước khác trong khu vực. Do đó, có thể nói Biển Đông chính là cầu nối thúc đẩy giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
“Do có vị trí địa chiến lược như vậy, Việt Nam có lợi thể để trở thành một quốc gia mạnh về biển – là bước đi đầu tiên trong lộ trình trở thành “cường quốc biển” khu vực”, TS. Phạm Cao Cường nhận định.
Khai thác biển còn thấp nhưng Việt Nam có Hải quân hiện đại nhất Đông Nam Á
Với mục tiêu trước mắt là trở thành một quốc gia mạnh về biển, Việt Nam cần phấn đấu để kinh tế trên biển và ven biển đóng góp tỷ lệ cao vào GDP của cả nước. Ước tính, hiện kinh tế biển và vùng ven biển chiếm khoảng 47 - 48% tổng GDP, trong đó, kinh tế biển chiếm khoảng 20 - 25%.
Trong số các ngành kinh tế biển, các ngành kinh tế diễn ra trên biển chiếm khoảng trên 98%. Trong đó, khai thác dầu khí là ngành đóng góp nhiều nhất, chiếm đến 60%. Các ngành còn lại như hải sản 14%, hàng hải 11%, du lịch biển 9%. Trong khi đó, những ngành liên quan đến khai thác biển như đóng tàu, chế biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, thông tin liên lạc vẫn còn có quy mô khá nhỏ.
Nhìn chung, kinh tế biển và vùng ven biển hiện nay của Việt Nam phát triển còn khá chậm, cơ cấu chưa hợp lý và vẫn ở trình độ thấp. Phương thức khai thác kinh tế biển chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ lẻ, tự phát. Do trình độ khai thác biển thấp, phương tiện khai thác thô sơ, lạc hậu nên việc phát triển và khai thác mới chỉ dừng lại ở vùng biển trong nước chứ chưa tiếp cận tới các vùng biển quốc tế.
Chù kỳ từ 2005 đến 2017, đóng góp của kinh tế biển vào GDP có xu hướng giảm và thiếu bền vững. Năm 2005, kinh tế biển chiếm 48% GDP, đến năm 2010 giảm xuống còn 40,73% và đến năm 2017 thì chỉ còn khoảng 30,19%.
So với cả nước, thu nhập bình quân đầu người của 28 tỉnh ven biển có phần thấp hơn. Tỷ trọng đóng góp chung của kinh tế hàng hải vào GDP cả nước còn rất nhỏ và có xu hướng giảm (chỉ chiếm 0,97% trong năm 2017).
Ngoài ra, kết cấu hạ tầng các vùng biển, ven biển và hải đảo vẫn còn nhiều yếu kém, lạc hậu, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển nhanh kinh tế biển. Nền khoa học và công nghệ biển của Việt Nam còn non trẻ, chưa được xây dựng và đầu tư đúng mức.
Chưa quy hoạch được công tác nghiên cứu khoa học biển cũng như thiếu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Ở nhiều nơi, môi trường biển và ven biển bị ô nhiễm, đặc biệt tại những nơi tập trung phát triển vận tải biển, công nghiệp ven bờ...
“Về mặt quốc phòng, Hải quân Việt Nam được đánh giá là hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á. Trong biên chế hiện có 6 tàu ngầm Kilo. Quân chủng Hải quân có đầy đủ “5 ngôi sao biển” là: không quân hải quân, tàu ngầm, hải quân đánh bộ, tên lửa chống hạm và tàu mặt nước”, TS. Phạm Cao Cường nhấn mạnh.
Việt Nam cần có chiến lược “cường quốc biển”
Nghị quyết số 26/NQ-CP ngày 5/3/2020 của Chính phủ đã đặt mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Việt Nam phấn đấu trở thành thành quốc gia mạnh về biển trên nền tảng của những thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến.
Mục tiêu hàng đầu của Nghị quyết 26/NQ-CP là bảo đảm thực thi đầy đủ quyền, lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế về biển, đặc biệt là Công ước năm 1982 của LHQ về Luật Biển - UNCLOS. Chính phủ định hướng phát triển bền vững cho quy hoạch, phát triển kinh tế biển, bao gồm các lĩnh vực như khai thác tài nguyên, đánh bắt, dịch vụ - du lịch ven biển dọc chiều dài bờ biển Việt Nam qua 28 tỉnh và thành phố.
Mặc dù vậy, với việc tình hình quốc tế có sự thay đổi nhanh chóng, Việt Nam cần có một chiến lược bài bản, tổng thể và lâu dài để đưa đất nước trở thành một “cường quốc biển”. Cần phải có một “chiến lược cường quốc biển” ở quy mô quốc gia để có thể huy động được nhiều nguồn lực, vừa phát triển kinh tế đất nước, vừa bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, đồng thời đảm bảo giữ vững an ninh quốc phòng.
Trong thực tế, đã có nhiều quốc gia trên thế giới đi theo con đường này. Lấy ví dụ, Ấn Độ là một quốc gia đang trên đường tiến lên trở thành một cường quốc biển. Để làm được việc đó, Ấn Độ đã xây dựng tầm nhìn, chính sách tổng thể dài hạn. Trong khi đó, một ví dụ khác Nhật Bản, khi mà từ những năm 1940, đất nước mặt trời mọc đã để tâm xây dựng chiến lược nhằm trở thành một cường quốc biển khu vực.
Tại khu vực Đông Nam Á, Indonesia là nước đã có nhiều thập kỷ tiến hành các biện pháp xây dựng đất nước thành một cường quốc biển khu vực. Dưới thời Tổng thống Joko Widodo, Indonesia hướng sự chú ý vào việc tăng cường an ninh hàng hải, mở rộng khung ngoại giao bao phủ toàn bộ khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, xây dựng hải quân Indonesia thành một lực lượng mạnh tại khu vực Đông Á.
Qua đó, có thể thấy rằng, những nước có tham vọng trở thành cường quốc biển đều chú trọng xây dựng một chiến lược tổng thể, trong đó bao gồm việc xây dựng chiến lược an ninh hàng hải của riêng mình.
Việt Nam, với vị trí địa chính trị của mình, cũng đang xây dựng một quốc gia mạnh về biển, và xa hơn là trở thành một cường quốc biển khu vực.
“Để làm được điều này, đất nước cần có một chiến lược tổng thể, toàn diện để hướng tới mục tiêu, trong đó có những mốc quan trọng từ nay đến năm 2030 và 2045. Chiến lược này sẽ đề ra tầm nhìn, các mục tiêu cụ thể với từng giai đoạn”, vị chuyên gia nhấn mạnh.
Chiến lược đó cần dựa trên ba trụ cột quan trọng về kinh tế, an ninh-quốc phòng và hàng hải. Ngoài ra, nó phải thể hiện một tầm nhìn chung trong việc khai thác và sử dụng biển một cách bền vững, thúc đẩy phát triển kinh tế biển, bảo vệ môi trường và các biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam.
Chuyên gia nêu chiến lược kinh tế biển của Việt Nam
Trên thực tế, kinh tế biển đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc đảm bảo quốc phòng – an ninh, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
Phát biểu về vấn đề kinh tế biển, GS.TS Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cũng cho rằng, Việt Nam chưa tận dụng hết tiềm năng, lợi thế của kinh tế biển.
“Điều tôi tiếc nhất hiện nay là chúng ta nhìn thấy kinh tế biển là tiềm năng lớn, nhưng chưa có doanh nghiệp nào đứng ra làm đầu tàu phát triển kinh tế biển. Một đất nước diện tích 3/4 giáp biển, không có ngành kinh tế biển vững mạnh là thiệt thòi, thậm chí là thua thiệt so với thế giới”, GS.TS Hoàng Văn Cường nhấn mạnh.
Vị chuyên gia nhấn mạnh, kinh tế biển cần được khơi dậy từ các doanh nghiệp tư nhân trong nước, không thể lôi kéo nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào quá trình phát triển kinh tế biển vì họ không cùng mục tiêu, chí hướng.
Về chiến lược kinh tế biển, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên Phạm Đại Dương vừa qua cũng có những nhìn nhận đáng chú ý.
Theo ông Phạm Đại Dương, dù trong giai đoạn hiện nay, dịch Covid-19 vẫn gây ảnh hưởng, làm chậm tốc độ phát triển nhưng kinh tế biển vẫn là một động lực tăng trưởng mới, là cơ hội để bứt phá vươn lên.
Bí Thư Tỉnh ủy Hải Dương nhấn mạnh, để nắm bắt được cơ hội này, các địa phương ven biển cần phải phát triển kinh tế biển trên quan điểm phải gắn với phát triển bền vững, hội nhập quốc tế, tận dụng được các thành tựu của cuộc cách mạng lần thứ tư và phải tính đến các yếu tố tác động do dịch Covid-19 mang lại.
Bên cạnh việc tiếp tục tuyên truyền nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên, doanh nghiệp và nhân dân về vị trí, vai trò của kinh tế biển và vùng ven biển, Bí thư Phạm Đại Dương cho rằng, cần có nhận thức thống nhất tạo nên sức mạnh tổng hợp trong toàn Đảng, toàn dân, toàn hệ thống chính trị về phát triển kinh tế biển, gắn phát triển kinh tế biển với đảm bảo chủ quyền biển, hải đảo của Việt Nam.
Dẫn kết luận của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD, vị chuyên gia khẳng định, kinh tế biển thời hậu Covid-19 sẽ có những thay đổi mới, trong đó đẩy nhanh quá trình phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường là xu thế chính.
Một số ngành nuôi biển xa bờ được dự báo có sự phát triển nhanh nhờ vào sự tiến bộ của các giải pháp công nghệ cũng như nhu cầu tăng cao về lương thực trong bối cảnh gia tăng dân số, đặc biệt là thực phẩm sạch. Việc sử dụng năng lượng trong hoạt động biển, hoạt động hàng hải cũng hướng đến xanh hơn, giảm phát thải khí CO2. Đồng thời, ngành du lịch cũng sẽ có sự thay đổi hướng đến sự bền vững, thân thiện với môi trường.
“Năng lượng tái tạo như điện gió, điện khí, điện thuỷ triều, điện mặt trời nổi trên biển… sẽ là lĩnh vực được quan tâm đầu tư trong thời gian tới nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cao về năng lượng cũng như giải quyết được các vấn đề về bền vững”, Bí thư Phạm Đại Dương nhấn mạnh.
Ngoài ra, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên cũng cho rằng cần có những chính sách để tập trung thu hút, khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia đầu tư phát triển các ngành kinh tế biển phát triển mạnh sau đại dịch như năng lượng tái tạo, nuôi biển, nuôi trồng thuỷ hải sản quy mô công nghiệp, du lịch biển…
Trong đó, định hướng phát triển cần theo hướng bền vững, thân thiện với môi trường cũng như bảo vệ, phát triển cộng đồng dân cư địa phương.
“Việc đầu tư, thu hút đầu tư cũng cần được lựa chọn, tính toán cẩn thận dựa trên quy hoạch, chiến lược để phát huy thế mạnh của từng địa phương, gắn với khai thác được tiềm năng, lợi thế liên kết vùng trong phát triển, tránh đầu tư tràn lan”, ông Dương lưu ý.
Cùng với việc các sản phẩm cần được phát triển thành quy mô công nghiệp thì mỗi địa phương, mỗi vùng cần xác định và chỉ phát triển một vài sản phẩm có thế mạnh để có thể tập trung đầu tư hạ tầng, công nghệ sản xuất, chế biến nhằm nâng cao giá trị gia tăng.
“Ví dụ, khu vực Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định có lợi thế về cá ngừ thì có thể tập trung đầu tư phát triển ngành cá ngừ ở Việt Nam”, Bí thư Phạm Đại Dương cho biết.
Vị chuyên gia cũng lưu ý đến hai ngành kinh tế biển hậu Covid-19 mà Việt Nam cần lưu ý, tập trung phát triển - ngành nuôi biển quy mô lớn gần bờ và xa bờ.
Điều quan trọng tiếp theo trong chiến lược phát triển kinh tế biển ở Việt Nam mà Bí thư Phú Yên đặc biệt nhấn mạnh đến chính là trong đầu tư, chú ý sự hài hoà giữa phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng an ninh.
“Các công trình dự án phục vụ phát triển kinh tế biển phải thực sự được thực hiện trên cơ sở đảm bảo quốc phòng, an ninh. Đồng thời, trong trường hợp cho phép, đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong quân sự vào phục vụ phát triển kinh tế biển, ưu tiên đầu tư những công trình lưỡng dụng”, ông Phạm Đại Dương khẳng định.
Cùng với đó là xây dựng những chính sách, giải pháp hỗ trợ người dân, ngư dân bám biển, làm giàu từ biển, để mỗi ngư dân là một cột mốc sống trên biển.
Tiếp đến, Việt Nam phải tận dụng việc hội nhập quốc tế sâu rộng của đất nước, bối cảnh chiến tranh thương mại giữa các quốc gia để thu hút các doanh nghiệp, các nguồn vốn quốc tế vào tham gia đầu tư, phát triển tỉnh, đặc biệt là trong các lĩnh vực có trình độ khoa học và công nghệ cao như sản xuất công nghiệp, chế biến thuỷ hải sản, hàng hải.