Có ‘kho báu’ lớn thứ 2 thế giới nhưng vì sao Việt Nam vẫn chưa khai thác được?
© Sputnik / Alexander Kryajev
/ Đăng ký
Cục Khảo sát địa chất Mỹ cho biết, tính đến thời điểm năm 2022, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về trữ lượng đất hiếm với 22 triệu tấn, chỉ thua Trung Quốc.
Lãnh đạo Tổng cục Địa chất và Khoáng sản cho rằng, Việt Nam có thể bỏ lỡ cơ hội chiếm lĩnh thị trường đất hiếm nếu không kịp thời đầu tư khai thác được tài nguyên này.
Theo chuyên gia, trong bối cảnh đất hiếm trở thành xu thế cạnh tranh giữa các nền công nghiệp toàn cầu, Việt Nam nên tranh thủ khai thác để “chọn đúng điểm rơi”, qua đó giúp phát triển kinh tế và nâng cao vị thế chính trị đất nước.
‘Bỏ lỡ là rất đáng tiếc’
Trên thế giới, REE - kim loại đất hiếm hoặc oxit đất hiếm, hoặc lanthanide - là một tập hợp của 17 kim loại nặng mềm màu trắng bạc.
Các nhà khoa học, địa chất học xác định có 17 nguyên tố đất hiếm là: lantan (La), xeri (Ce), praseodymium (Pr), neodymium (Nd), promethium (Pm), samarium (Sm), europium (Eu), gadolinium (Gd), terbium (Tb ), dysprosi (Dy), holmi (Ho), erbi (Er), thulium (Tm), ytterbium (Yb), lutetium (Lu), scandium (Sc) và yttrium (Y).
Báo cáo của Cục Khảo sát địa chất Mỹ cho biết, tính đến thời điểm năm 2022, Việt Nam đứng thứ hai về trữ lượng đất hiếm với 22 triệu tấn, chỉ sau Trung Quốc (44 triệu tấn).
Trong bối cảnh nguyên tố đất hiếm là một nhóm kim loại có thành phần quan trọng cho nền khoa học kỹ thuật hiện đại, thậm chí trở thành “chiêu bài cạnh tranh” của các cường quốc công nghiệp, nhiều người đặt vấn đề, vì sao Việt Nam có ‘kho báu’ lớn thứ 2 thế giới - sở hữu lượng dự trữ đất hiếm hàng đầu toàn cầu, nhưng vẫn chưa khai thác được?
Ngày 23/11, ông Nguyễn Văn Nguyên, Tổng cục phó Tổng cục Địa chất và Khoáng sản (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã giảiđáp phần nào về những khó khăn, hạn chế trong công tác khai thác đất hiếm ở Việt Nam.
Ông Nguyên nhấn mạnh, việc Việt Nam gần 10 năm vẫn chưa khai thác được nguồn đất hiếm trong nước là rất đáng tiếc.
“Không chỉ tôi mà nhiều thế hệ làm địa chất chung cảm giác nuối tiếc khi chúng ta chưa khai thác được đất hiếm sau 60 năm phát hiện (từ năm 1960, Liên Xô đã có báo cáo ban đầu), hơn 10 năm phát hiện đất hiếm dạng hấp phụ ion và gần 10 năm cấp phép khai thác. Càng nuối tiếc hơn khi trữ lượng đất hiếm ở nước ta thuộc nhóm lớn nhất thế giới mà những lợi ích từ nó mang lại gần như là con số 0”, ông Nguyên nói với VnExpress.
Thời gian qua, một số nước đã dùng đất hiếm để thách thức, mặc cả với các nước có nhu cầu cao về nguyên liệu này như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc. Qua đó, có thể thấy, việc chậm triển khai các dự án đất hiếm sẽ khiến Việt Nam vừa đánh mất cơ hội về kinh tế, vừa bỏ lỡ cơ hội nâng cao vị thế chính trị.
“Một diễn biến mà tôi cập nhật được từ đồng nghiệp địa chất ở Lào, Malaysia, Indonesia, Myanmar là với những điều kiện thuận lợi trong thăm dò, cấp phép, khai thác, những nước này đang đẩy nhanh dự án khai thác, chế biến đất hiếm, đặc biệt là kiểu hấp thụ ion như mỏ Bến Đền của Việt Nam. Điều này càng khiến lo ngại tiềm năng xây dựng vị thế đất hiếm của nước ta sẽ không được tận dụng”, ông Nguyên chia sẻ.
Vị lãnh đạo Tổng cục Địa chất và Khoáng sản cũng bày tỏ quan điểm của mình về tình trạng hiện đang còn những suy nghĩ kiểu "cơm không ăn, gạo vẫn còn đó", tức chưa khai thác đất hiếm thì vẫn còn và để dành cho đời sau.
Theo ông Nguyên, lối tư duy này xuất phát từ cách tiếp cận thông tin về đất hiếm. Nhiều người cho rằng đó là khoáng sản chứa kim loại rất hiếm thì cần để lại cho thế hệ sau.
“Tuy vậy, trên thực tế, những nguyên tố này lại không quá hiếm, và chúng có mặt khắp nơi trong các thành tạo địa chất khác nhau”, chuyên gia phân tích.
Theo ông, việc đất hiếm có giá trị cao như hiện nay là vì người ta chỉ khai thác đất hiếm ở các mỏ lớn, có thể triển khai theo quy mô công nghiệp nên số mỏ như vậy không nhiều. Điều này dựa trên các điều kiện công nghệ và bài toán kinh tế.
Tuy vậy, trong tương lai, không loại trừ việc người ta có thể khai thác các kim loại đất hiếm ở những vị trí nhỏ hơn, dẫn tới nguồn cung lớn hơn, từ đó làm giảm giá trị đất hiếm.
“Ngoài ra, như tôi đã nói hiện nay nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước ASEAN cũng đang đẩy mạnh việc khai thác đất hiếm. Điều này đồng nghĩa nguồn cung sẽ dồi dào hơn, giá thành giảm. Một yếu tố nữa khiến chúng ta không nên chần chừ khai thác đất hiếm là mặc dù chưa tìm ra nguyên liệu thay thế, các nước đi đầu đang đẩy mạnh nghiên cứu vật liệu khác để tránh phụ thuộc vào đất hiếm”, ông Nguyên nói.
Vị chuyên gia cho biết, đất hiếm “hiếm” ở chỗ, chúng có thể được chiết tách ra các kim loại có giá trị phục vụ nhiều ngành kinh tế như chế tạo nam châm, tuabin điện gió, xe điện, xử lý môi trường, quốc phòng, công nghệ cao. Trong bối cảnh đất hiếm đang là xu thế toàn cầu, Việt Nam nên tranh thủ khai thác để chọn đúng điểm rơi.
Vì sao Việt Nam vẫn chưa khai thác được đất hiếm?
Theo ông Nguyên, có 3 nguyên nhân chính khiến Việt Nam chưa khai thác được đất hiếm.
Đầu tiên là doanh nghiệp đã có giấy phép thăm dò khai thác thì lại không có công nghệ chế biến sâu. Nhiều công ty vẫn đang nỗ lực tìm kiếm công nghệ chế biến trong thời gian qua. Đây cũng là trở ngại lớn để doanh nghiệp có thể đưa sản phẩm ra thị trường trong nước và xuất khẩu.
Nguyên nhân thứ hai là do doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quyết tâm đầu tư, chưa có chiến lược nghiên cứu và tiếp cận công nghệ chế biến quặng đất hiếm một cách quyết liệt.
“Thứ ba là cơ chế, chính sách. Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị về chiến lược địa chất, khoáng sản ngày 2/10/2021 có nhắc đến việc duy trì hoạt động khai thác đất hiếm, nhưng mới dừng lại ở tính định hướng mà thiếu cơ chế, chính sách cụ thể, nhất là việc đầu tư cho nghiên cứu, hợp tác quốc tế phục vụ riêng cho loại khoáng sản đặc biệt này”, ông Nguyên phân tích.
Đại diện Tổng cục Địa chất và Khoáng sản cho hay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã cấp phép cho Công ty Cổ phần Đất hiếm Lai Châu, thuộc Tập đoàn Than, Khoáng sản Việt Nam, được khai thác mỏ đất hiếm Đông Pao ở Lai Châu.
Dù vậy, doanh nghiệp này hiện chỉ chế biến 40%, trong khi quy định xuất khẩu tối thiểu của Bộ Công Thương là 95%. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng yêu cầu không được bán đất hiếm dưới dạng thô.
Công ty Đất hiếm Lai Châu cũng đã làm việc với nhiều đơn vị trong và ngoài nước để hợp tác, khai thác và chế biến sâu đất hiếm. Đáng tiếc, các nỗ lực đến nay đều thất bại vì đối tác không chứng minh được năng lực công nghệ, hoặc không chuyển giao công nghệ bởi đây là bí mật, tài sản riêng của họ, phải mất rất nhiều công sức, tiền của nghiên cứu.
“Xét trong bối cảnh như vậy, tôi cho rằng tốt nhất nên để các tổ chức, cá nhân trong nước chủ động đầu tư nghiên cứu. Nếu chỉ hợp tác khai thác mà không chuyển giao công nghệ chế biến đất hiếm thì khác gì bán khoáng sản thô”, ông Nguyên nói.
Nhiều đơn vị trong và ngoài nhà nước hiện đã nghiên cứu thành công chế biến sâu đất hiếm ở quy mô phòng thí nghiệm. Muốn triển khai ở quy mô công nghiệp, cần phải thử nghiệm ở thực địa. Khi đó lại cần có sự cho phép của công ty được cấp phép khai thác mỏ đất hiếm (chủ mỏ), cơ quan chức năng tỉnh có mỏ, tiếp đó mới đến việc cấp đất, cấp khoáng sản phục vụ nghiên cứu. Đây là cả một quá trình khá tốn kém và phải trải qua nhiều thủ tục hành chính.
Do đó, cơ quan quản lý cần có cơ chế thuận lợi trong việc phối hợp giữa chủ mỏ và cơ quan nghiên cứu, hoặc cho phép cơ quan nghiên cứu được tiến hành thử nghiệm trong các kiểu mỏ đất hiếm ở khu vực mà đã có kết quả điều tra bằng ngân sách.
Cần lưu ý vấn đề môi trường
Theo ông Nguyên, trong quá trình khai thác đất hiếm, môi trường là một vấn đề quan trọng cần được lưu ý. Việc khai thác mỏ đất hiếm có thể dẫn đến sự hủy diệt thảm thực vật, mất nước và xói mòn đất. Các mỏ đất hiếm cũng có thể chưa nguyên tố phóng xạ. Do vậy, khi khai thác, tuyển luyện phải tính toán kỹ để không tác động đến sức khoẻ con người.
“Các mỏ đất hiếm gốc hiện nay thường cộng sinh với khoáng vật đa kim như chì, kẽm, đồng hoặc fluorit. Những chất này khi khai thác cũng sẽ thải nhiều khí độc, chất độc ra môi trường nước. Hay đối với kiểu đất hiếm hấp phụ ion khi chiết tách tại chỗ sẽ phải sử dụng nhiều ure dẫn tới thải các chất như nitơ amoniac và kim loại nặng ra môi trường nước”, ông Nguyên nói.
Để giải quyết nguy cơ về ô nhiễm môi trường, trước hết cần hoàn thiện quy định pháp luật trong quản lý, khai thác đất hiếm nhằm ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, cần siết chặt tiêu chuẩn về môi trường sinh thái.
Khi khai thác, có thể áp dụng các quy trình, máy móc xử lý hiện đại của các nước tiên tiến như Mỹ, Ausatralia, Hàn Quốc. Dù vậy, quy định về môi trường sẽ làm tăng chi phí khai thác và chế biến đất hiếm, qua đó làm tăng giá đất hiếm xuất khẩu, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
“Chúng ta cần cân đối một cách cẩn trọng giữa hai bài toán trên để đưa ra lựa chọn hài hòa nhất”, Tổng cục phó Tổng cục Địa chất và Khoáng sản nhấn mạnh.