Không nước nào trên thế giới có lãi suất cao khủng khiếp như Việt Nam
© Ảnh : Báo Đầu tư Chứng khoánTS Lê Xuân Nghĩa phát biểu tại Diễn đàn Cấp cao Cố vấn tài chính Việt Nam 2023
© Ảnh : Báo Đầu tư Chứng khoán
Đăng ký
Lãi suất vẫn cao khủng khiếp bất chấp nỗ lực của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
TS. Lê Xuân Nghĩa nêu thực tế nhiều doanh nghiệp đang phải đi vay với lãi suất 14-15%/năm. Lãi suất thực (trừ đi lạm phát) còn tới 10% thì không nước nào trên thế giới có lãi suất cao khủng khiếp như vậy.
Chuyên gia lưu ý, điều này sẽ gây ra nhiều rủi ro với nền kinh tế của Việt Nam.
"Không nước nào trên thế giới có lãi suất cao khủng khiếp như vậy"
Phát biểu tại Diễn đàn cấp cao Cố vấn tài chính Việt Nam năm 2023 do báo Đầu tư tổ chức, chuyên gia kinh tế, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, lãi suất cao là một trong những rủi ro lớn của nền kinh tế.
Chuyên gia cho biết, lạm phát toàn cầu, chỉ số USD đang có xu hướng đi xuống, còn trong tăng trưởng kinh tế thì các định chế tài chính lớn có nhiều quan điểm khác nhau.
TS. Nghĩa phân tích, chính sách tiền tệ của Việt Nam bắt đầu chuyển sang hướng hỗ trợ phục hồi nhưng lãi suất cho vay còn cao.
"Lãi suất tiền gửi của Việt Nam đã giảm khá nhanh nhưng lãi suất cho vay vẫn còn khá cao", - TS. Lê Xuân Nghĩa bày tỏ.
Ông dẫn chứng câu chuyện một người bạn của mình đi vay tiền ở một ngân hàng khá tên tuổi để đầu tư vào điện mặt trời với lãi suất 17%/năm, tới đây nhà băng hứa là sẽ giảm xuống 15%.
"Đầu tư dài hạn mà lãi suất như vậy thì… chỉ có đi buôn thuốc phiện mới có lãi", - TS. Lê Xuân Nghĩa nói thẳng, lãi suất thực (trừ đi lạm phát) còn tới 10% là rất cao, không nước nào trên thế giới có lãi suất cao khủng khiếp như vậy.
Theo ông Nghĩa, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có nhiều nỗ lực giảm lãi suất điều hành nhằm hỗ trợ phục hồi kinh tế nhưng "lãi suất vẫn ở mức rất cao chứ không phải là cao nữa".
Rủi ro cho nền kinh tế
Đặt vấn đề vì sao lãi suất lại cao như vậy, TS. Lê Xuân Nghĩa nêu, thực tế, một trong những rủi ro lớn nhất của kinh tế Việt Nam hiện nay là lãi suất cho vay vẫn còn cao, nhiều doanh nghiệp đang phải chịu lãi vay đến 14-15%/năm, bất chấp nhà điều hành đã có nhiều nỗ lực giảm lãi suất điều hành.
"Lãi suất vẫn đang khá cao là do ngành ngân hàng phải dè chừng biến động tỷ giá", - TS. Lê Xuân Nghĩa nói về mỗi lo ngại của NHNN đối với diễn biến khó lường của tỷ giá.
Tuy nhiên, theo TS. Nghĩa, áp lực tỷ giá thời gian tới là không qua lớn. Ông Nghĩa phân tích, có 3 yếu tố để thấy tỷ giá năm nay giảm, USD khó sốt trở lại và NHNN có thể sẽ có thêm dư địa giảm lãi suất điều hành hơn nữa.
Thứ nhất, đồng USD sẽ không tăng, thậm chí còn giảm. Theo đó, chỉ số USD index đã giảm từ mức 115 điểm cuối năm ngoái còn 102 điểm và có thể giảm thêm về ngưỡng 100 điểm. USD index khó tăng trở lại trong bối cảnh thế giới đa cực, sử dụng nhiều đồng tiền như hiện nay.
Thứ hai, giá hàng hóa nguyên liệu nhập khẩu có thể tăng, nhất là giá nhiên liệu – gây áp lực với tỷ giá – song Bộ Tài chính vẫn còn dư địa để can thiệp (thuế, phí xăng dầu).
Thứ ba, cán cân thanh toán của Việt Nam vẫn dương. 6 tháng qua thặng dư thương mại lớn, NHNN có thể mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối.
"Đây là các yếu tố cho thấy áp lực tỷ giá thời gian tới không còn nguy hiểm, NHNN có thể mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Dự đoán, tỷ giá năm 2023-2024 sẽ duy trì ổn định", - TS. Lê Xuân Nghĩa bày tỏ.
Chuyên gia cũng lưu ý, với một quốc gia mở cửa như Việt Nam, tỷ giá ổn định là điều kiện để thị trường tài sản, thị trường chứng khoán có thể đứng vững, phục hồi nhẹ.
Cần thuyết phục để NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất
Đối với diễn biến lãi suất, TS. Lê Xuân Nghĩa cho hay, nhiều khả năng vào cuối năm nay, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ FED sẽ dừng tăng lãi suất và có thể điều chỉnh giảm lãi suất từ cuối năm sau.
Châu Âu cũng có thể ngưng tăng lãi suất từ cuối năm nay do lạm phát giảm nhanh hơn dự đoán. Do đó, đây là cơ hội để NHNN giảm mạnh thêm lãi suất để hỗ trợ doanh nghiệp.
Đối với điều kiện tín dụng, ông Nghĩa cho biết, hiện chúng ta có tài sản thế chấp và khả năng trả nợ. Theo chuyên gia, trong bối cảnh khủng hoảng thì tất cả các nước lùi yếu tố tài sản thế chấp và tập trung vào khả năng trả nợ cũng như hiệu quả của dự án.
Tuy nhiên, ở Việt Nam thì không, làm gì thì làm cũng phải có tài sản thế chấp. Ông dẫn chứng, có doanh nghiệp xuất khẩu thức ăn chay sang châu Âu, năm ngoái doanh thu 10 tỷ đồng, năm nay đơn đặt hàng lên hơn 15 tỷ đồng nhưng khi doanh nghiệp ra trình đơn hàng thì ngân hàng không cho vay thêm vì tài sản thế chấp vẫn chỉ có thế.
Theo TS. Lê Xuân Nghĩa, trong giai đoạn phục hồi, ngân hàng cần thẩm định tính hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ trong tương lai chứ không chỉ nhìn vào tài sản thế chấp. Vị chuyên gia cũng liên hệ lối tư duy này đối với vấn đề trái phiếu doanh nghiệp.
"Trái phiếu doanh nghiệp mà đòi có tài sản thế chấp? Chúng ta chỉ nên căn cứ vào xếp hạng, khả năng trả nợ, chứ ai quản lý nổi tài sản thế chấp đó, rất phức tạp", ông Nghĩa nêu quan điểm.
Chuyên gia cũng đề nghị các ngân hàng thương mại nên nhìn vào khả năng trả nợ để bơm tín dụng cho doanh nghiệp, qua đó lấy lại niềm tin cho thị trường.
"Tôi nghĩ chúng ta cần thuyết phục để NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm và hỗ trợ mạnh cho doanh nghiệp, cho phục hồi kinh tế, bởi lãi suất thực cao quá", - TS. Lê Xuân Nghĩa nhắc lại.
Trên thế giới, hiện chỉ số ngành sản xuất PMI toàn cầu đang nhích lên cho thấy kinh tế toàn cầu đang ở giai đoạn cuối của đáy hồi phục.
Kinh tế Việt Nam đang đi theo đáy chữ U từ tháng 11/2022 và bắt đầu hồi phục nhẹ. Dự báo kinh tế Việt Nam sẽ hồi phục rõ nét từ cuối năm nay.