“Thí nghiệm trên người”: bí mật khó chịu nhất của CIA
© AFP 2023 / Mike Nelsonlính thủy đánh bộ Mỹ
© AFP 2023 / Mike Nelson
Đăng ký
Chiến tranh Lạnh đã là đấu trường tranh giành tâm trí. Trong hai thập kỷ, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã tìm cách giành quyền kiểm soát hoàn toàn tâm trí con người. Những thí nghiệm bí mật đã dẫn đến kết quả gì – những chi tiết trong tài liệu của Sputnik.
“Tôi nghĩ mỗi người trong chúng tôi đều hối hận vì đã cố gắng đạt được kết quả đó. Chúng tôi đã nhận thức được rằng, chúng tôi đang vượt qua lằn ranh đỏ”, - một trong những người tham gia dự án MK-Ultra hồi tưởng lại.
Theo truyền thống "tốt nhất"
Trong bộ phim hành động nổi tiếng năm 1992 “Universal Soldier” (Chiến binh vũ trụ), những người lính thiệt mạng ở Việt Nam được sống lại và họ giống như robot sinh học không chút do dự thi hành mệnh lệnh. Không phải mọi thứ trong bộ phim này đều là sự tưởng tượng của các tác giả viết kịch bản. Tất nhiên, người chết không sống lại được, nhưng chương trình thao túng não bộ đã tồn tại.
© Ảnh : Central Intelligence AgencyCIA
CIA
© Ảnh : Central Intelligence Agency
Nhà sử học Stephen Kinzer lập luận rằng, dự án này tiếp nối các thí nghiệm của Đức Quốc xã trên các tù nhân thực hiện trong các trại tập trung. Theo ông, Washington đã sử dụng tài liệu của các nhà khoa học theo Hitler được bí mật mang đi sau chiến tranh như một phần của Chiến dịch cái kẹp giấy (Operation Paperclip). Ngày 20/8/1951, Hoa Kỳ khởi động Dự án Artichoke. Các thí nghiệm trên người đã được thực hiện có sử dụng chất gây nghiện. Mục đích là để tìm hiểu xem liệu có thể thiết lập quyền kiểm soát một người đến mức anh ta chỉ nói sự thật và thực hiện những mệnh lệnh trái với ý muốn của mình, thậm chí trái với ý thức bảo vệ bản thân hay không.
Trẻ em bị giam giữ tại trại tập trung Auschwitz, 1945
© Sputnik / Fishman
/ Trách nhiệm về dự án Artichoke được đảm nhận bởi một ban giám đốc đặc biệt của CIA do Tướng quân đội Paul F. Gaynor đứng đầu. Sự lựa chọn không hề ngẫu nhiên. Trong Thế chiến thứ hai, đại úy Gaynor đã tham gia Chiến dịch Overlord ở Normandy. Trận Bulge vào tháng 12 năm 1944, Gaynor đã giết chết 8 lính Đức trong khi yểm trợ cho sự di tản của đại đội mình, trước khi hình thành một tuyến phòng thủ, khiến quân Đức phải phân tán. Nhờ hành động của mình, Gaynor đã được trao tặng Huân chương Chữ thập phục vụ xuất sắc - phần thưởng cao quý hạng nhì trong Quân đội Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, tất cả những điều này không ngăn được vị tướng sau chiến tranh công khai ủng hộ những người từng theo Chủ nghĩa Quốc xã trong chính phủ Mỹ - John Trevor Jr. và nghị sĩ Hamilton Fish III.
Khi chiến dịch Artichoke bắt đầu được thực hiện, hóa ra Gaynor cũng không xa với bác sĩ Josef Mengele - “Thiên sứ của Tử thần” tại trại tập trung Auschwitz.
Cuộc chiến trí tuệ
Ở giai đoạn đầu tiên, dự án Artichoke được triển khai ở nước ngoài - ở Châu Âu, Nhật Bản, Đông Nam Á và Philippines. CIA đã tạo ra các nhà tù bí mật để tránh bị truy tố. Những người bị tình nghi làm việc cho tình báo địch bị thẩm vấn dưới ảnh hưởng của thuốc kích thích thần kinh, điện và nhiệt độ cao. Mọi thứ để tìm hiểu phải làm thế nào để tiêu diệt tâm trí con người và kiểm soát nó.
Sau các cuộc thí nghiệm này, nhiều người gặp khó khăn trong việc nhớ lại những gì đã xảy ra với họ. Từ năm 1952, các chất hướng thần “tinh khiết” bắt đầu được bí mật sử dụng cho các nhân viên CIA. Một trong số họ đã được “cho ăn” LSD trong 77 ngày.
“Điều hết sức quan trọng là [CIA] phải tiến lên mạnh mẽ hơn trong việc xác định và thành lập một nhóm hoặc nhiều nhóm người đáng tin cậy, sẵn sàng tham gia các thí nghiệm trong khuôn khổ dự án Artichoke”, - Gaynor lưu ý và nhấn mạnh giá trị khoa học được cho là cực kỳ quan trọng của các thí nghiệm trên người.
Năm 1953, chương trình này được mở rộng và có tên mới “MK-Ultra”. Theo yêu cầu của Gaynor, các thí nghiệm bắt đầu được thực hiện ở Hoa Kỳ, không chỉ có sự tham gia của quân đội mà còn cả các cơ quan dân sự. Các thí nghiệm đã được thực hiện dưới vỏ bọc nghiên cứu tại hơn 80 tổ chức ngoài quân đội, bao gồm các trường cao đẳng, đại học, bệnh viện, nhà tù và công ty dược phẩm. Vị tướng này cũng đề xuất thành lập những tổ chức chính trị cánh tả hư cấu để xác định “các phần tử không đáng tin cậy” và thực hiện các thí nghiệm bạo lực chống lại những người như vậy. Gaynor cũng chấp thuận việc tuyển dụng 4.000 quân nhân Mỹ bị kết án về nhiều tội phạm khác nhau.
Các thí nghiệm trên quân nhân đã diễn ra theo ba giai đoạn. Ở giai đoạn đầu tiên, vũ khí hóa học thông thường đã được thử nghiệm trên chúng. Sau đó khoảng một trăm binh sĩ được tiêm LSD. Ở giai đoạn thứ ba, họ cho 16 đối tượng vô tình uống các loại thuốc ma tuý và bắt đầu thẩm vấn họ.
© AP Photo / Greg BakerMáy bay trực thăng Mỹ CH-46 tại căn cứ Futenma, Nhật Bản.
Máy bay trực thăng Mỹ CH-46 tại căn cứ Futenma, Nhật Bản.
© AP Photo / Greg Baker
Một trong những vai trò quan trọng nhất trong dự án mới do nhân viên CIA, nhà hóa học Sidney Gottlieb đảm nhận. Ông ta đã nghiên cứu tác động của các chất này lên con người. Đồng thời, nhà hóa học này đã phát triển kế hoạch đầu độc những nhà lãnh đạo nước ngoài. Ví dụ, Gottlieb đề nghị đổ chất độc hóa học dạng bột vào giày của Fidel Castro với mục tiêu khiến râu của Fidel bị rụng khi ông đến New York phát biểu trước Liên Hợp Quốc. Năm 1960, Gottlieb đích thân vận chuyển vật liệu sinh học độc hại đến Congo để thực hiện kế hoạch ám sát Thủ tướng Patrice Lumumba.
Gottlieb cũng cân nhắc việc sử dụng ma túy trong các chiến dịch bí mật. Ông ta kêu gọi sử dụng chất ma túy được pha trộn trong đồ uống dành cho các quan chức cấp cao trong quá trình đàm phán.
Ông ta thật may mắn vì cơ quan tình báo đã thay đổi nhà lãnh đạo. Tân Giám đốc CIA Allen Dulles sẵn sàng phê duyệt bất kỳ thí nghiệm nào được đề xuất nếu ông thấy chúng có tiềm năng chiến thắng chủ nghĩa cộng sản. Ông ta tin rằng thời đại của cuộc chiến trí tuệ đã đến.
“Mục tiêu của “cuộc chiến trí tuệ” là tâm trí con người, cả về mặt tập thể lẫn cá nhân. Cần phải điều hòa tâm trí để nó không còn phản ứng theo ý chí tự do hay trên cơ sở lý trí nữa mà chỉ dựa trên những xung lực từ bên ngoài”, - Allen Dulles nói trong buổi gặp mặt cựu sinh viên Đại học Princeton.
Nạn nhân của “thí nghiệm khoa học”
Chương trình này đã tập hợp 150 dự án, bao gồm cả việc phát triển vũ khí vi sóng. Năm 1957, các thí nghiệm về “kiểm soát tâm trí” bắt đầu tại Đại học McGill. Bệnh nhân khuyết tật nhẹ phải nghe liên tục các bản ghi âm giọng nói trong khi họ bị ảnh hưởng bởi các chất kích thích thần kinh mạnh. Không phải ai cũng thích điều này, và không còn lâu nữa những cái chết được ghi nhận.
Tại một trong những cuộc gắp gỡ như vậy, những người có mặt bị đánh thuốc mê để kiểm tra hiệu quả của loại “huyết thanh sự thật” đang được nghiên cứu. Trong số đó có nhân viên phòng thí nghiệm vũ khí sinh học Frank Olson, người nghi ngờ tính đạo đức của dự án. Một ngày sau, viên sĩ quan có tâm trạng như một người khác, vô cùng kích động, bối rối và mất phương hướng. Anh ta không thể làm việc được nữa.
Chín ngày sau, Frank Olson đã lao thẳng xuống cửa sổ khách sạn Statler Hilton ở Manhattan và tử vong. Năm 1976, gia đình của anh ta nhận được lời xin lỗi từ Tổng thống Gerald Ford và khoản bồi thường 750.000 USD.
Tuy nhiên, không chỉ các chất hóa học được sử dụng cho những mục đích này. MK-Ultra cũng bao gồm chương trình "Chấn thương sọ não hoàn hảo" của Hải quân chuyên nghiên cứu tác động của các xung tần số cận âm để xóa bộ nhớ. Các thí nghiệm cũng được tiến hành để tạo ra “sự lo lắng do thôi miên” và nghiên cứu “mối quan hệ giữa tính cách với khả năng nhạy cảm với gợi ý thôi miên”.
Năm 1973, giữa lúc xảy ra bê bối Watergate, Giám đốc CIA Richard Helms bất ngờ quyết định chấm dứt chương trình và ra lệnh tiêu hủy toàn bộ hồ sơ MK-Ultra. Cùng năm đó, “hai người sáng lập”- Gaynor và Gottlieb – xin nghỉ việc trong ngành tình báo. Tướng Gaynor có liên quan đến vụ Watergate, nhưng điều đó không ngăn cản ông ta nghỉ hưu với Huân chương Chiến công. Còn nhà hóa học Sidney Gottlieb đã từ chức mà không hề hài lòng. Không có ý tưởng nào của ông ta đạt được thành công như mong muốn.
Việc tiêu hủy các tài liệu khiến việc điều tra tội phạm không thể đầy đủ. Nhưng ngay sau đó báo chí và công chúng đã biết đến chương trình này. Sau đó Quốc hội Mỹ đã tổ chức mấy phiên điều trần đối với các hoạt động bất hợp pháp của CIA, FBI và các cơ quan tình báo quân sự có liên quan đến dự án này. Năm 1975, ủy ban của Thượng nghị sĩ Frank Church rút ra kết luận rằng, "rõ ràng, đã không có sự đồng từ phía bất kỳ đối tượng nào".
Một năm sau, Washington chính thức cấm những thí nghiệm như vậy trên người. Những người thực hiện tội phạm không bị trừng phạt, và các nạn nhân đã tìm kiếm công lý trong một thời gian dài. Ví dụ, vào năm 1987, cựu trung sĩ quân đội Mỹ James Stanley đã đệ đơn kiện Chính phủ Mỹ nhưng không thành công. Vào cuối những năm 1950, ông tự nguyện đồng ý tham gia thí nghiệm nhưng không biết người ta tiêm chất gì vào người. Anh ta bị ảo giác và mất trí nhớ định kỳ. James Stanley đã trải qua những thay đổi lớn về tính cách dẫn đến việc bị sa thải và ly hôn.
© AFP 2023 / Brendan SmialowskiCIA
CIA
© AFP 2023 / Brendan Smialowski
Vài năm sau khi dự án bị bỏ dở, người ta tình cờ phát hiện 20 nghìn trang sống sót sau lệnh của Helms. Các tài liệu chủ yếu liên quan đến nguồn tài chính. Trong thời gian hai mươi năm, Washington đã chi trả gần 90 triệu USD cho chương trình này. Hơn năm nghìn thường dân và quân nhân đã là đối tượng của thí nghiệm như vậy. Hiện chưa rõ số lượng chính xác những người mắc bệnh tâm thần và tù nhân bị buộc tham gia vào các thí nghiệm trên người.
Mãi đến những năm 1990, Washington cuối cùng đã thừa nhận sai lầm của mình và bắt đầu trả các khoản bồi thường cho nạn nhân. Tuy nhiên, những chi tiết về các thí nghiệm vô nhân tính này vẫn chưa được tiết lộ.