Ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo là điều tất yếu
18:18 24.11.2025 (Đã cập nhật: 18:19 24.11.2025)

© Depositphotos.com / Sdecoret
Đăng ký
Dự luật về Trí tuệ nhân tạo (AI) được xây dựng dựa trên căn cứ về nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với một “vấn đề mới, xu hướng mới” và “yêu cầu giải quyết vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn” và đang trong quá trình xây dựng, nghiên cứu tiếp thu và chỉnh sửa.
Ngày 21/11, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam Nguyễn Mạnh Hùng đã trình Quốc hội dự án Luật Trí tuệ nhân tạo (AI). Dự luật điều chỉnh toàn bộ hoạt động nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng AI tại Việt Nam; áp dụng cả với cả tổ chức, cá nhân nước ngoài nếu sản phẩm AI của họ tạo tác động tại Việt Nam.
Chuyên gia Nguyễn Hồng Long, nhà nghiên cứu chính sách đối nội của Việt Nam đã đưa ra một số phân tích, bình luận về Dự luật nói trên trong cuộc trả lời phỏng vấn của Sputnik.
Dựa trên căn cứ về nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với một “vấn đề mới, xu hướng mới”
Đề cập tới khía cạnh Dự “Luật Trí tuệ nhân tạo” được xây dựng như thế nào, ông Nguyễn Hồng Long nhấn mạnh: theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Số: 54/VBHN-VPQH ngày 11 tháng 8 năm 2025), một đạo luật như “Luật Trí tuệ nhân tạo” được Quốc hội giao Chính phủ và các cơ quan chức năng soạn thảo theo quy định theo Chương trình lập pháp hàng năm hoặc nhiệm vụ đột xuất cấp bách. Trong trường hợp này, Dự luật về Trí tuệ nhân tạo (AI) được xây dựng dựa trên căn cứ về nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với một “vấn đề mới, xu hướng mới” và “yêu cầu giải quyết vấn đề bất cập, phát sinh từ thực tiễn”. Vấn đề điều chỉnh bằng pháp luật đối với “Trí tuệ nhân tạo” đều thuộc cả hai nhu cầu nói trên.
Cơ quan chủ trì soạn thảo trình Ủy ban thường vụ Quốc hội sơ thảo thảo luật; sau đó tổ chức lấy ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội, các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết; lấy ý kiến các Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với những nội dung của dự án liên quan đến chức năng quản lý ngành, đến lĩnh vực của Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan. Trường hợp lấy ý kiến bằng văn bản, cơ quan, tổ chức, cá nhân được lấy ý kiến có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị tham gia góp ý kiến.
Tiếp theo, cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cử đại diện tham gia cuộc họp phản biện xã hội khi được đề nghị.
Sau khi nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý, phản biện xã hội thu thập được, cơ quan chủ trì soạn thảo biên soạn toàn văn dự án luật theo chỉ đạo của Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Khoa học và Công nghệ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tổ chức thẩm định dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết trước khi trình Chính phủ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Việc thẩm định được thực hiện trên cơ sở hồ sơ dự án luật đã gửi thẩm định.
Trong thời hạn chậm nhất là 45 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, cơ quan trình phải gửi hồ sơ dự án luật đến cơ quan chủ trì thẩm tra để tiến hành thẩm tra và gửi hồ sơ dự án luật bằng bản điện tử đến Tổng Thư ký Quốc hội - Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội để gửi đến các Đoàn đại biểu Quốc hội và đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội.
Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội chủ trì thẩm tra Dự thảo luật. Thường trực Ủy ban Pháp luật và Tư pháp có trách nhiệm tham gia thẩm tra về tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật của dự thảo luật.
Sau khi được thẩm định và thẩm tra, dự án luật phải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi trình Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội có thể đưa dự án ra thảo luận, cho ý kiến tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.
Chuyên gia Nguyễn Hồng Long nhấn mạnh, sau tất cả các bước tiến hành xây dựng, thẩm định và thẩm tra nói trên, dự luật được đưa ra Quốc hội để biểu quyết thông qua, trừ trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của cơ quan trình sẽ quyết định lùi thời điểm trình Quốc hội thông qua.
“Luật Trí tuệ nhân tạo” của Việt Nam được xây dựng theo quy trình nói trên như tất cả các văn bản luật và nghị quyết thuộc thẩm quyền thông qua của Quốc hội và thẩm quyền ban hành của Chủ tịch nước.
Những đặc điểm chính
“Trí tuệ nhân tạo” là vấn đề rất mới, xuất hiện trong thời điểm diễn ra cuộc Cách mạng Công nghệ lần thứ tư với nhiều đặc điểm rất khác biệt về đối tượng điều chỉnh và đối tượng chịu tác động. Trong khi đó thì đây là lần điều tiên, Việt Nam ban hành một đạo luật để điều chỉnh một đối tượng mới nên chắc chắn nội dung của Luật sẽ có nhiều đặc điểm khác nhau về đối tượng điều chỉnh, phạm vi tác động, đối tượng chịu ảnh hưởng tác động, nguyên tắc điều chỉnh, các quy định tổng quát và chi tiết, đối tượng thi hành.v.v…
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Long lưu ý rằng, hệ thống AI với tính chất phức tạp của cả đối tượng điều chỉnh, phạm vi tác động, đối tượng chịu ảnh hưởng gián tiếp và trực tiếp, đối tượng thực thi quy định pháp luật… cũng sẽ rất phức tạp trên cả hai môi trường thực tế và ảo. Cũng chính vì sự phức tạp này của các đối tượng được điều chỉnh nên Luật Trí tuệ nhân tạo được xây dựng trên bốn định hướng lập pháp:
Một là “Quản lý dựa trên mức độ rủi ro”. Theo đó, mức độ can thiệp pháp lý cần tương xứng với rủi ro mà hệ thống AI gây ra cho con người, xã hội và môi trường. Đây là tinh thần cốt lõi của OECD (Framework for Classification và EU AI Act), giúp luật vừa đủ sức bảo vệ quyền con người vừa không ngăn cản sự đổi mới tiến bộ về công nghệ.
Hai là “Tính trung lập của công nghệ”, Theo đó, luật nhấn mạnh đến việc điều chỉnh mục đích và cách sử dụng, không quy định theo công nghệ cụ thể. Với tốc độ tiến hóa nhanh của mô hình nền tảng (foundation models) và AI tạo sinh (Generative AI), nguyên tắc trung lập công nghệ giúp văn bản pháp luật không bị lỗi thời khi công nghệ và kỹ thuật có sự thay đổi.
Ba là “Luật cần có tính định hướng”. Theo đó, Luật cần giữ vai trò định hướng, giao các chuẩn kỹ thuật, quy trình và hướng dẫn chi tiết cho cấp nghị định, thông tư và tiêu chuẩn quốc gia. Mô hình phân tầng điều chỉnh này giúp cân bằng giữa “tính ổn định của luật” và “tính thích ứng của công nghệ” gồm 4 bậc:
Luật Trí tuệ nhân tạo do Quốc hội ban hành quy định về nguyên tắc, phạm vi, phân loại rủi ro, quyền và nghĩa vụ cơ bản.
Nghị định của Chính phủ quy định về danh mục hệ thống rủi ro cao, cơ chế khung pháp lý cho hoạt động thử nghiệm có kiểm soát (sandbox), quy trình tiền kiểm và hậu kiểm.
Thông tư, quyết định do Bộ và cơ quan ngang bộ ban hành quy định các biểu mẫu kỹ thuật, quy trình báo cáo sự cố, tiêu chuẩn dấu hiệu nhận diện (watermark) nhằm ngăn chặn các hành vi sao chép, sử dụng hoặc ăn cắp sản phẩm trí tuệ…
Cuối cùng là hệ thống chuẩn kỹ thuật chi tiết, quy trình kiểm thử, đo lường và so sánh.
Bốn là “Nguyên tắc đạo đức và nhân văn”. Theo đó, Luật cần lồng ghép các giá trị đạo đức cốt lõi của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) (2021) như công bằng, minh bạch, trách nhiệm, an toàn và tôn trọng quyền con người; cùng các nguyên tắc quản trị rủi ro của NIST AI RMF (2023) gồm chuỗi hành động “Quản trị - Phản ánh – Đánh giá – Điều chỉnh”.
Ông Nguyễn Hồng Long cũng nhấn mạnh: trên cơ sở 4 định hướng này, Luật Trí tuệ nhân tạo quy định 8 nguyên tắc cơ bản cho hoạt động của trí tuệ nhân tạo gồm có:
1.
AI phải phục vụ và hỗ trợ con người, tôn trọng nhân phẩm, quyền tự do, quyền riêng tư cũng như các giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam.2.
Con người giữ quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm cuối cùng đối với mọi quyết định, hành vi và hậu quả trong toàn bộ vòng đời của hệ thống AI - từ thiết kế, phát triển đến vận hành và sử dụng.3.
Hệ thống AI phải được phát triển, vận hành an toàn, bảo mật, công bằng, không phân biệt đối xử và bảo đảm minh bạch, phù hợp với các nguyên tắc đạo đức.4.
Mọi hoạt động liên quan đến AI phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; đồng thời bảo đảm chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán và giá trị văn hóa Việt Nam. Tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện Khung đạo đức trí tuệ nhân tạo quốc gia do Chính phủ ban hành.5.
Phát triển năng lực tự chủ về công nghệ, hạ tầng, dữ liệu và mô hình AI chiến lược; đồng thời chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế phù hợp với thông lệ và nguyên tắc quốc tế.Mục đích và nội dung chính của Luật Trí tuệ nhân tạo
Trên cơ sở 4 định hướng nói trên, Luật Trí tuệ nhân tạo đề ra các nguyên tắc mục đích và yêu cầu cơ bản cho hoạt động của trí tuệ nhân tạo gồm có:
1.
Mục đích tối cao của việc ban hành Luật trí tuệ nhân tạo là AI phải phục vụ và hỗ trợ con người, tôn trọng nhân phẩm, quyền tự do, quyền riêng tư cũng như các giá trị văn hóa, đạo đức của dân tộc Việt Nam.2.
Làm cho con người có cơ sở pháp lý để nắm quyền kiểm soát và chịu trách nhiệm cuối cùng đối với mọi quyết định, hành vi và hậu quả trong toàn bộ vòng đời của hệ thống AI - từ thiết kế, phát triển đến vận hành và sử dụng.3.
Điều chỉnh hệ thống AI phát triển, vận hành an toàn, bảo mật, công bằng, không phân biệt đối xử và bảo đảm minh bạch, phù hợp với các nguyên tắc đạo đức.4.
Tạo hành lang pháp lý để mọi hoạt động liên quan đến AI phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; đồng thời bảo đảm chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán và giá trị văn hóa Việt Nam. Tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện Khung đạo đức trí tuệ nhân tạo quốc gia do Chính phủ ban hành.5.
Tạo điều kiện để phát triển năng lực tự chủ về công nghệ, hạ tầng, dữ liệu và mô hình AI chiến lược; đồng thời chủ động hợp tác, hội nhập quốc tế phù hợp với thông lệ và nguyên tắc quốc tế.6.
Điều chỉnh hoạt động AI hướng tới phát triển kinh tế - xã hội bền vững, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường, bảo đảm công bằng xã hội và góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.7.
Xây dựng môi trường pháp lý và chính sách thuận lợi, an toàn để khuyến khích nghiên cứu, khởi nghiệp, sáng tạo và thương mại hóa các sản phẩm, dịch vụ AI.8.
Tạo công cụ pháp lý để Nhà nước áp dụng biện pháp quản lý tương ứng với cấp độ rủi ro của từng hệ thống AI. Mặt khác, Nhà nước chỉ quản lý bắt buộc đối với hệ thống AI khi có nguy cơ gây hại rõ ràng; đồng thời khuyến khích thử nghiệm có kiểm soát, tiêu chuẩn mở và quy tắc ứng xử tự nguyện.Nội dung Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo gồm 8 chương, 36 điều; có tác dụng điều chỉnh toàn bộ hoạt động nghiên cứu, phát triển, cung cấp, triển khai và sử dụng AI tại Việt Nam; áp dụng với cả tổ chức, cá nhân nước ngoài nếu sản phẩm AI của họ tạo tác động tại Việt Nam. Các hệ thống dùng riêng cho quốc phòng, an ninh được loại trừ để bảo đảm bí mật nghiệp vụ, song nếu sử dụng cho mục đích dân sự thì vẫn phải tuân thủ quy định chung.
Những quy định đáng chú ý nhất gồm có:
Điều 10 của dự thảo Luật, hệ thống trí tuệ nhân tạo được chia làm 4 cấp độ rủi ro gồm:
1.
Rủi ro không chấp nhận được là những hệ thống trí tuệ nhân tạo có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng, không thể khắc phục đối với quyền con người, an ninh quốc gia, trật tự hoặc an toàn xã hội hoặc bị sử dụng cho các hành vi vi phạm pháp luật. Theo đó, các hệ thống AI thuộc nhóm này bị cấm tuyệt đối triển khai hoặc lưu hành.2.
Rủi ro cao là những hệ thống AI có khả năng gây tổn hại đáng kể đến tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức hoặc các lợi ích công cộng quan trọng khác. Nhóm này phải chịu sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý và chỉ được phép hoạt động khi đáp ứng đầy đủ điều kiện pháp lý, kỹ thuật và đạo đức.3.
Rủi ro trung bình là các hệ thống AI không thuộc nhóm rủi ro cao, nhưng trong quá trình sử dụng có thể gây nhầm lẫn, lừa dối hoặc thao túng người dùng do họ không nhận biết được bản chất AI của hệ thống hoặc nội dung do AI tạo ra (trừ trường hợp hiển nhiên trong bối cảnh sử dụng). Đối với nhóm này, Nhà nước khuyến cáo cần có cảnh báo rõ ràng, minh bạch thông tin để người dùng nhận biết.4.
Rủi ro thấp là hệ thống AI không thuộc các nhóm nói trên, có mức độ tác động thấp, ít ảnh hưởng đến quyền con người hoặc trật tự xã hội. Nhóm này được khuyến khích phát triển, thử nghiệm và thương mại hóa theo cơ chế quản lý linh hoạt, tạo điều kiện thúc đẩy đổi mới và sáng tạo.Dự thảo luật quy định việc thiết lập Cổng thông tin điện tử một cửa về trí tuệ nhân tạo được thiết lập và vận hành nhằm: Cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực AI; hỗ trợ quản lý nhà nước và tạo thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong hoạt động trí tuệ nhân tạo; là trung tâm điều phối, kết nối dữ liệu và thủ tục hành chính AI toàn quốc.
Dự thảo luật cũng quy định việc các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo sẽ được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và hỗ trợ đặc thù nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ lõi và xây dựng hệ sinh thái AI tại Việt Nam. Bên cạnh các ưu đãi, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực AI cần phải chấp hành các nghĩa vụ bắt buộc về tiêu chuẩn mở, về cạnh tranh lành mạnh, về an ninh và an toàn trong sử dụng.
Dự thảo luật cũng đưa ra Khung đạo đức quốc gia về trí tuệ nhân tạo gồm có:
Công bằng, không phân biệt đối xử, giảm sai lệch dữ liệu, mô hình và thuật toán;
Minh bạch và có thể giải thích, kết quả và hành vi của hệ thống phải được giải thích ở mức phù hợp;
An toàn, tin cậy, đảm bảo khả năng phục hồi, chống chịu khi có sự cố;
Trách nhiệm giải trình, xác định chủ thể chịu trách nhiệm với toàn bộ vòng đời của hệ thống.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Long nhấn mạnh: Một trong những quy định quan trọng bậc nhất của Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo là “Cấm sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo để đưa ra quyết định tự động hoàn toàn trong các trường hợp có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ hoặc lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, trừ khi luật chuyên ngành có quy định khác. Người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm cuối cùng đối với quyết định đó”.
Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo cũng quy định rõ trách nhiệm pháp lý, bồi thường và cơ chế bảo hiểm rủi ro khi hệ thống AI gây thiệt hại.
Ngoài ra, vì ở Việt Nam đã có một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo nên dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo cũng quy định về chính sách chuyển tiếp đối với các hệ thống, mô hình và sản phẩm AI đã được triển khai trước khi Luật có hiệu lực (1/1/2026). Theo đó, các hệ thống trí tuệ nhân tạo rủi ro cao đã được đưa vào sử dụng trước 1/1/2026 phải được nhà cung cấp, bên triển khai rà soát, tự đánh giá và hoàn thành đăng ký, đánh giá sự phù hợp trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày các quy định về phân loại và quản lý hệ thống trí tuệ nhân tạo theo rủi ro có hiệu lực.
Những vấn đề cần được cải thiện và bổ sung
Trả lời câu hỏi của Sputnik về việc những khía cạnh nào của Dự luật Trí tuệ nhân tạo cần được cải thiện, chuyên gia Nguyễn Hồng Long nói: tuy dự luật Trí tuệ nhân tạo còn đang trong quá trình xây dựng, nghiên cứu tiếp thu và chỉnh sửa nhưng đã có một số ý kiến góp ý quan trọng. Nổi bật hơn cả là:
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đề nghị bổ sung một mục riêng về việc sử dụng AI trong đào tạo, nghiên cứu và đổi mới sáng tạo; bổ sung quy định về nguyên tắc đối với việc đánh giá tác động xã hội của AI kèm theo biện pháp để ứng phó với sự thay đổi xã hội do AI mang lại.
Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam đề nghị bổ sung thêm “tổ chức” vào khái niệm “đối tượng bị ảnh hưởng”, bao gồm cả “cá nhân” và “tổ chức”.
Đoàn đại biểu TP Hà Nội tại Quốc hội đã chỉ ra ba điểm nghẽn lớn của giáo dục đại học để phát triển nguồn nhân lực là thủ tục mở ngành mới còn chậm, trong khi AI thay đổi rất nhanh; các trường khó thu hút chuyên gia quốc tế trong lĩnh vực AI do thiếu cơ chế đặc thù; chưa có chính sách phát triển giảng viên AI một cách mạnh mẽ. Từ đó, có đề nghị Luật Trí tuệ nhân tạo cần làm rõ phạm vi “AI phục vụ nghiên cứu – đào tạo” để bảo đảm hoạt động học thuật được thông thoáng.
Một số điểm quan trọng khác cũng cần được bổ sung là các quy định: cấm sử dụng AI để gây rối, kích động chính trị, xâm phạm an ninh quốc gia, thao túng các cuộc bỏ phiếu, bầu cử…; cấm sử dụng AI để tạo dựng những nội dung giả mạo, tạo dựng hình ảnh, video clip… nhằm lừa đảo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, gây chia rẽ dân tộc và xã hội cũng như các mục đích xấu khác.
“Cá nhân tôi đề nghị bổ sung quy định khuyến khích và ưu tiên ứng dụng AI trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, trong sáng tạo nghệ thuật, trong phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Đây là những lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế về tài nguyên văn hóa, nhưng còn hạn chế về nguồn lực; AI có thể là công cụ hữu hiệu để số hóa di sản, tạo các sản phẩm trải nghiệm mới, nâng cao năng suất sáng tạo”, - nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Long nhấn mạnh với Sputnik.
Quá trình góp ý cho Dự thảo Luật Trí tuệ nhân tạo (lần 2) vẫn đang tiếp tục.






