Động thái trái ngược của Ngân hàng Nhà nước, diễn biến bất thường của tình hình lạm phát cho thấy sự khác biệt về nội lực sản xuất của Việt Nam năm 2022 so với thời kỳ khủng hoảng năm 2008.
“Bất ngờ”
Tổng cục Thống kê công bố chỉ số tăng trưởng kinh tế Việt Nam cao nhất 12 năm qua – với mức GDP năm 2022 tăng đột phá 8,02%.
Trong đó, các động lực cho tăng trưởng tiếp tục gây ấn tượng như kim ngạch xuất nhập khẩu vượt trên 700 tỷ USD, xuất khẩu hàng hóa đạt 371,85 tỷ USD, tăng 10,6% so với năm trước, cán cân thương mại thặng dư 11,2 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành nước xuất siêu năm thứ 7 liên tiếp.
Công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,1%, đóng góp tới 1/4 vào mức tăng trưởng chung 8,02% của toàn nền kinh tế và chiếm 89% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 21% so với 2021, gấp 2,7 lần kế hoạch, nếu loại trừ yếu tố giá vẫn tăng 15,6%, và so với năm 2019, thời điểm trước dịch - cũng tăng tới 15%.
Tuy nhiên, giới chuyên gia cũng đặt sự chú ý vào hai sự kiện trái ngược. Sự kiện thứ nhất là ngày 15/12, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) “bất ngờ” niêm yết lại tỷ giá mua vào USD tại Sở giao dịch, sau khi dừng mua USD một thời gian.
Bên cạnh việc niêm yết lại, giá chào mua USD giao ngay của NHNN cũng tăng mạnh 900 đồng/USD so với thời điểm đầu tháng 9, lên mức 23.450 đồng/USD.
Việc ngân hàng Trung ương của Việt Nam mua USD được lý giải là nhằm “bơm tiền" VND ra thị trường trong bối cảnh thanh khoản hệ thống ngân hàng đang rất căng thẳng, nhu cầu tín dụng tăng cao sau đại dịch, các kênh huy động vốn của doanh nghiệp bị tắc nghẽn nghiêm trọng dẫn đến tình trạng “khát vốn”.
Nhưng NHNN mua vào ngoại tệ từ đâu? Theo tạp chí Công Thương dẫn quan điểm của chuyên gia Kinh tế trưởng VinaCapital, Michael Kokalari cho biết, nguồn USD chảy vào Việt Nam thông qua dòng vốn FDI, thặng dư thương mại và doanh thu từ du lịch lữ hành quốc tế.
Tuy nhiên, dòng vốn đăng ký FDI vào Việt Nam năm nay giảm 11%; trong khi Việt Nam chỉ có thể đón được khoảng 3,5 triệu du khách nước ngoài, thấp hơn rất nhiều so mục tiêu đề ra, và doanh thu có khoảng 3 tỷ USD.
“Rất may là thặng dư thương mại đạt 11,2 tỷ USD, góp phần quan trọng giúp NHNN có thêm nguồn lực điều hành chính sách tiền tệ”, chuyên gia lưu ý.
Đối với sự kiện thứ hai, cần nhấn mạnh rằng, sự kiện thứ nhất (NHNN mua USD) gây “bất ngờ” là bởi trước đó 3 tháng, tính đến tháng 9/2022, theo Báo cáo của VinaCapital và ACBS, NHNN đã bán ròng (tức chỉ bán, không mua) khoảng 21 tỷ USD, giảm mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam xuống mức 90 tỷ USD, tương đương với giá trị nhập khẩu khoảng 3 tháng.
Trong một Báo cáo cập nhật về tình hình dự trữ ngoại hối quốc tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), cũng cho thấy, đến cuối tháng 6/2022, tổng dự trữ ngoại hối quốc tế đạt gần 12.037 tỷ USD, trong đó Việt Nam dự trữ 108,24 tỷ USD, mức cao. Tuy nhiên, chỉ trong 3 tháng, NHNN đã bán 21 tỷ USD.
Việc bán USD, được lý giải, là nhằm để hỗ trợ đồng nội tệ, bởi có thời điểm tỷ giá USD/VND đã cán mốc 25.000 VND/USD.
Đây là điều bất lợi, vì khi đồng USD lên giá, người dân và doanh nghiệp sẽ đổ xô vào “ôm” đô la, ôm vàng như một loại tài sản đảm bảo, thay vì bỏ tiền ra kinh doanh. Chỉ có kinh doanh mới đóng góp cho tăng trưởng và việc làm.
Đến lượt việc làm lại tạo ra một lực lượng tiêu dùng hùng hậu, trở thành bệ đỡ cho tăng trưởng.
Được biết, nguồn USD mà NHNN bán ra lấy từ dự trữ ngoại hối trên 100 tỷ USD từ nhiều nguồn lực, trong đó có việc xuất siêu 7 năm liên tiếp.
Vì sao lạm phát Việt Nam thấp?
Một vấn đề khác cũng được dư luận đặc biệt quan tâm, đó là, vì sao giá một số loại năng lượng và vật tư chiến lược nhập khẩu tăng cao mà chỉ số lạm phát trong nước vẫn được kiểm soát ở mức 3,15%?
Có thể coi đây là chuyện “bất bình thường”, bởi lẽ năm 2008, kinh tế Việt Nam cũng từng chao đảo với siêu lạm phát tới mức 22,97% mà nguyên nhân hàng đầu được định danh “nhập khẩu lạm phát”.
Theo lý giải, vào thời điểm đó, giá dầu đã tăng 72%, sắt thép tăng 114%, phân bón tăng 59,6%, khí hoá lỏng tăng 95%. Cũng kể từ đó, cụm từ mới “nhập khẩu lạm phát” được sử dụng phổ biến và thống nhất cách hiểu là, xảy ra trong trường hợp giá nhập khẩu (tức giá mua hàng từ nước ngoài) và tỷ giá đồng thời tăng hoặc chỉ một yếu tố tăng mạnh.
Trên thực tế, ở Việt Nam năm nay, chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 10,86%, trong đó chỉ số giá của nhóm nông sản, thực phẩm tăng 10,82%; nhóm nhiên liệu tăng 42,2%; nhóm hàng hóa chế biến, chế tạo khác tăng 9,53%, xăng dầu tăng 47,65%; phân bón tăng 40,87%; sắt, thép tăng 32,3%; lúa mì tăng 28,67%...
Cùng với đó, tỷ giá USD/VND tăng mạnh, có thời điểm VND mất giá tới 9%, lên mức 25.000 VND/USD. Vậy là hội đủ 2 yếu tố: giá nhập khẩu tăng + tỷ giá tăng, vậy tại sao lạm phát năm 2022 vẫn trong vòng kiểm soát?
Nguyên nhân hàng đầu, theo các chuyên gia, là nội lực sản xuất trong nước đã phát triển mạnh mẽ, khác xa so với năm 2008, và công tác điều hành xuất nhập khẩu đúng hướng.
Nhập khẩu nhóm hàng hóa phục vụ sản xuất để xuất khẩu và hàng hóa thiết yếu chiếm gần 90%; nhập khẩu của nhóm hàng không khuyến khích nhập khẩu chỉ chiếm 6%.
Do đó, mặc dù Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi “nhập khẩu lạm phát” (do giá nhập khẩu tăng, tỷ giá tăng) nhưng cái tăng giá nhập khẩu, tăng tỷ giá đó lại theo chân hàng hóa xuất khẩu ra nước ngoài, nên không mấy tác động đến chỉ số lạm phát.
Đồng thời, năm 2008 lạm phát cao là vì nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu (nhập siêu 17,5 tỷ USD), nên số hàng hóa “nhập khẩu lạm phát” ở lại trong nước nhiều hơn là xuất khẩu ra nước ngoài. Ngược lại, năm 2022 xuất khẩu cao hơn nhập khẩu (xuất siêu trên 11 tỷ USD).
Thành công trong điều hành tỷ giá
Theo Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú, việc điều hành chính sách tiền tệ năm 2022 đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có từ biến động phức tạp, khó lường của kinh tế thế giới và trong nước, đặc biệt là vấn đề lạm phát, lãi suất tăng cao ở một số quốc gia, tình hình địa chính trị quốc tế diễn biến khó lường…
Nhờ áp dụng nhiều biện pháp linh hoạt, đồng bộ, theo ông Tú, các áp lực lớn trên thị trường tiền tệ, ngoại hối trong nước được hóa giải, qua đó góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng.
Đáng chú ý, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s và S&P đã nâng mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia cho Việt Nam. Nhờ đó, niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân vào môi trường và triển vọng kinh tế trung hạn tiếp tục được giữ vững.
Đánh giá việc điều hành tỷ giá thời gian qua, Phó Thống đốc cho rằng, việc duy trì được tỷ giá hiện nay là một thành công và thành công này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Một là điều hành đã tạo độ thông thoáng cho các ngân hàng thương mại trong việc mở rộng thêm biên độ giao dịch của các NHTM từ ±3% lên ±5 %.
“Hai là việc can thiệp ngoại tệ vào những lúc cần thiết với mức độ phù hợp. Bên cạnh các chính sách của NHNN, còn các chính sách kinh tế vĩ mô khác mà Chính phủ, các bộ ngành đang có sự gắn kết để tạo ra hiệu ứng tốt, tích cực cho tỷ giá thời gian qua”, Phó Thống đốc nói.
Thêm một điều quan trọng nữa là tình hình thế giới những tháng gần đây cũng có dịu bớt các tác động đến Việt Nam nên NHNN đang duy trì tỷ giá tích cực hơn cả so với các nước, kể các các nước phát triển và các nước trong khu vực.