Những trang sử vàng

Xung đột Trung-Việt năm 1979 và lập trường của Liên Xô

Bài mạn đàm trước trong loạt bài “Những trang sử vàng” đã nói về việc ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam tại Matxcơva vào ngày 3 tháng 11 năm 1978. Hiệu quả của văn kiện này đã được thực tiễn khẳng định rõ trong cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam vào tháng 2 - tháng 3 năm sau.
Sputnik

Liên Xô đã thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Việt Nam

Lực lượng xâm lược của Trung Quốc bao gồm 7 quân đoàn. Họ chỉ phải đối đầu với một sư đoàn chính quy của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một sư đoàn tự vệ địa phương, các đơn vị biên phòng và các đơn vị dân quân, những đơn vị này có rất ít khẩu pháo, súng cối và vũ khí chống tăng.
Vào ngày 18 tháng 2, chính phủ Liên Xô đã ra tuyên bố, trong đó nêu rõ: “Nhân dân Việt Nam anh hùng là những nạn nhân của cuộc xâm lược mới, lần này cũng có đủ khả năng đứng lên bảo vệ mình, đặc biệt là khi họ có những người bạn đáng tin cậy. Liên Xô sẽ thực hiện những cam kết của mình theo Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác giữa hai nước”.
Những trang sử vàng
Việt Nam trong điều kiện khó khăn: Đặt cược vào Liên Xô
Ngay sau khi cuộc xung đột nổ ra, bộ chỉ huy Liên Xô ngay lập tức bắt đầu chụp ảnh vệ tinh và trinh sát điện tử bổ sung để theo dõi chiến trường. Các vệ tinh trinh sát Kosmos được phóng nhanh đã chụp ảnh những gì đang diễn ra và thu thập mọi tín hiệu từ xa, đặc biệt là các thông điệp và mệnh lệnh của bộ chỉ huy Trung Quốc. Không quân Liên Xô đã cử một số máy bay trinh sát điện tử Tu-95 đến vịnh Bắc Bộ để thực hiện hoạt động trinh sát và theo dõi các hoạt động của lực lượng không quân và hải quân Trung Quốc.
Các đơn vị và sư đoàn tên lửa của Liên Xô đồn trú trên biên giới Liên Xô-Trung Quốc chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu. 29 sư đoàn bộ binh cơ giới của Quân đội Liên Xô - 250 nghìn người, với sự yểm trợ của không quân - được điều động đến biên giới ở khu vực Mãn Châu. Các trung đoàn không quân chính quy đồn trú tại nhiều khu vực khác nhau của Liên Xô đã được chuyển đến các sân bay ở Mông Cổ. Các đơn vị dịch vụ kỹ thuật sân bay cũng được điều động cùng với họ. Vào một số thời điểm nhất định, mười trung đoàn không quân tiền tuyến của Liên Xô bay trên bầu trời cùng lúc.
Với mục đích tạo áp lực quân sự lên Trung Quốc, trên tất cả các quân khu vùng biên giới phía Đông, trên lãnh thổ Mông Cổ và trên biển Thái bình dương, Liên Xô đã tổ chức cuộc diễn tập hiệp đồng quân binh chủng và diễn tập hải quân. Trong cuộc diễn tập lớn nhất này có sử dụng lực lượng của 20 sư đoàn bộ binh cơ giới và không quân với số quân hơn 200 nghìn người, 2.600 xe tăng, 900 máy bay. Đặc biệt, sáu sư đoàn xe tăng và súng trường cơ giới đã tham gia các cuộc tập trận trên lãnh thổ Mông Cổ, trong đó có ba sư đoàn được đưa thêm vào Mông Cổ từ các vùng Siberia và Ngoại Baikal của Liên Xô, cũng như ba sư đoàn không quân, hai sư đoàn trực thăng và hai trung đoàn không quân trinh sát. Trong thời gian cuộc tập trận, các máy bay chiến đấu đã thực hiện gần ba nghìn phi vụ. Tham gia diễn tập có 12 trung đoàn xe tăng, mỗi trung đoàn gồm một trăm xe. Về mặt lý thuyết, đội quân thiết giáp này với sức mạnh chiến đấu và số quân tương đương với hai quân đoàn cơ giới hóa của Liên Xô trong cuộc chiến với Đức Quốc xã, có khả năng tiến đến khu vực miền trung Trung Quốc chỉ trong vài ngày. Và điều này khiến Bắc Kinh lo lắng. Yếu tố tâm lý cũng đóng vai trò quan trọng. Các nhân viên đại sứ quán Trung Quốc được đưa về nhà từ Matxcơva bằng tàu hỏa, và trên đường về nước, họ có thể nhìn thấy những đoàn xe tăng Liên Xô di chuyển về phía biên giới Trung Quốc.
Những trang sử vàng
Tổ hợp thủy điện Hòa Bình: Chiến công kỳ vĩ của tập thể xây dựng Việt Nam và Liên Xô

Cố vấn quân sự Liên Xô trở lại Việt Nam

Ngày 19 tháng 2, một nhóm cố vấn quân sự Liên Xô gồm các vị tướng giàu kinh nghiệm nhất, đứng đầu là tướng Gennady Obaturov đã bay đến Hà Nội. Sau khi thảo luận tình hình hiện tại với Tổng tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Việt Nam Lê Trọng Tấn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đại tướng Văn Tiến Dũng, các cố vấn đã lên tuyến đầu, nơi bộ đội Việt Nam đang chiến đấu. Trên đường đi, nhóm này đã phải hứng chịu hỏa lực pháo binh dữ dội, nhưng may mắn là không ai bị thương.
Sau chuyến đi khẩn cấp thị sát chiến trường, tướng Obaturov đã ra lệnh cho các cố vấn của mình chuẩn bị đơn xin chuyển gấp đến Việt Nam bằng máy bay vận tải Liên Xô các loại vũ khí và trang thiết bị cần thiết để đẩy lùi kẻ thù. Trong cuộc họp kéo dài ba giờ với Tổng bí thư Lê Duẩn, tướng Obaturov đã đề xuất điều động một quân đoàn Việt Nam được huấn luyện tốt nhất từ ​​Campuchia đến mặt trận phía Bắc. Đề xuất này, cũng như một số đề xuất khác do tướng Obaturov đưa ra, đã được chấp nhận ngay lập tức. Hơn nữa, đồng chí Lê Duẩn còn chỉ thị cho các chỉ huy quân sự của Việt Nam, trước khi đưa ra bất cứ quyết định gì, phải thống nhất với các cố vấn quân sự Liên Xô. Các phi công của không quân vận tải quân sự Liên Xô lái các máy bay được phân công cho tướng Obaturov đã chuyển quân đoàn Việt Nam từ Campuchia đến hướng Lạng Sơn. Hoạt động đặc biệt năng động và sáng tạo là lực lượng chuyên gia thông tin liên lạc của đoàn cố vấn (biên chế có 120 người từ tháng 8 năm 1978 và 68 người được đưa sang ngay khi cuộc xung đột nổ ra) thực hiện nhiệm vụ ngay trong vùng chiến sự. Rất đáng tiếc là về phía các chuyên gia quân sự Liên Xô đã không tránh khỏi tổn thất. Vào tháng 3, một máy bay vận tải của Việt Nam bị rơi khi hạ cánh gần Đà Nẵng, và đoàn cố vấn gồm sáu phi công, huấn luyện viên và thiếu tướng không quân Malykh đã hy sinh.
Các cơ quan quân sự tại Matxcơva đã phản hồi nhanh chóng và tích cực mọi yêu cầu từ nhóm cố vấn Liên Xô tại Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam đã nhận được mọi thứ cần thiết để xây dựng sức kháng cự chống lại kẻ thù trong thời gian ngắn nhất có thể. Kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột, hơn 400 xe tăng, xe chiến đấu bộ binh và xe bọc thép chở quân, 400 khẩu pháo và súng cối, cùng 50 hệ thống tên lửa phóng loạt Grad đã được vận chuyển từ Liên Xô đến Việt Nam bằng đường biển và máy bay vận tải quân sự. Ngoài ra còn có hơn 100 hệ thống phòng không, 400 hệ thống phòng không di động và hàng nghìn tên lửa, hơn 800 súng phóng lựu chống tăng, 20 máy bay chiến đấu. Liên Xô cũng đã cung cấp thiết bị chuyên dụng để sửa chữa xe bọc thép, ô tô và vũ khí. Toàn bộ khối lượng viện trợ lớn này đã được phân bổ và chuyển đến Việt Nam trong gần một tháng.
Những trang sử vàng
Đại sứ Liên Xô tại Hà Nội kể về diễn biến lịch sử vào tháng 4 năm 1975

Trung Quốc có nguy cơ chiến đấu trên hai mặt trận

Ngày 2 tháng 3, Liên Xô ra tuyên bố nêu rõ nếu Trung Quốc không rút quân khỏi Việt Nam thì sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận. Chính quyền Việt Nam đã ban bố lệnh tổng động viên. Tất cả những điều này phần lớn quyết định kết quả của cuộc chiến, trong đó vai trò quyết định tất nhiên thuộc về Lực lượng vũ trang anh hùng của Việt Nam. Vào ngày 5 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc bắt đầu thực hiện việc rút quân khỏi các vị trí đã chiếm đóng của Việt Nam trong thời gian trước. Vào ngày 18 tháng 3, giao tranh đã chấm dứt hoàn toàn.
Và các thủy thủ Liên Xô cũng không đứng ngoài cuộc trong các sự kiện đó. Chúng tôi sẽ đề cập đến nội dung này trong phần tiếp theo của loạt bài “Những trang sử vàng”.
Thảo luận