Sóng gió thị trường cũng không thể quật ngã giá trị cây lúa Việt Nam

Sóng gió thị trường, cú "phanh gấp" từ Philippines và sự thận trọng từ Indonesia không thể kéo giá gạo Việt Nam đi xuống. Nhưng phía sau mức giá xuất khẩu cao nhất thế giới hiện nay là một câu hỏi lớn: giá cao có phải lợi thế bền vững, hay chỉ là ánh hào quang nhất thời trong một thị trường đầy biến động?
Sputnik
Trong bối cảnh Philippines, thị trường tiêu thụ lớn nhất tạm ngừng nhập khẩu gạo trong vòng 60 ngày, còn Indonesia thu hẹp đơn hàng, nhiều người từng lo ngại gạo Việt Nam sẽ mất đà.
Thế nhưng, điều nghịch lý đã xảy ra. Giá gạo Việt Nam vẫn trụ vững ở mức cao nhất thế giới, lên tới 512 USD/tấn, vượt qua cả Thái Lan, Ấn Độ và những đối thủ truyền thống.

Thương hiệu gạo Việt đã bắt đầu có chỗ đứng trên bàn ăn của thế giới

Không thể phủ nhận, việc gạo Việt Nam giữ được giá cao là một bước tiến lớn trong hành trình tái định vị ngành gạo. Từ vị thế “xuất nhiều nhưng rẻ” sang “ít nhưng chất”.
Trong nhiều năm, Việt Nam từng bị gắn với hình ảnh “nông dân làm nhiều, thương lái bán rẻ”, sản phẩm đầu ra phụ thuộc hoàn toàn vào giá thế giới.
Việc nâng giá bán trung bình lên trên 500 USD/tấn không chỉ là thành tựu thương mại, mà còn là chỉ dấu cho thấy gạo Việt đang chuyển hóa từ một loại hàng hóa thô sang một sản phẩm có thương hiệu, có bản sắc, và đẳng cấp hơn.
Ngành gạo Việt Nam trước cơ hội và rủi ro sau khi vượt Thái Lan
Trên kệ hàng siêu thị tại châu Á, Âu và Mỹ đã xuất hiện nhiều các loại gạo mang tên riêng: ST24, ST25, Jasmine, gạo hữu cơ ... Những thương hiệu không còn bị hoà tan trong bao bì trắng không tên, mà bắt đầu có nhận diện, có chỗ đứng.

Giá trị không đến từ ngẫu nhiên

Đằng sau mức giá ấn tượng là một loạt chuyển đổi có tính hệ thống. Từ cải tạo giống, kiểm soát đầu vào, mở rộng vùng nguyên liệu, đến xây dựng thương hiệu.
Chỉ trong hai tháng đầu năm 2025, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 1,1 triệu tấn lúa từ Campuchia, không phải để thay thế, mà để điều phối chuỗi cung ứng và ưu tiên phần lúa nội địa cho các dòng gạo cao cấp.

“Việt Nam hiện nhập khẩu một phần lúa từ Campuchia chủ yếu để chế biến bún, miến, phở - những sản phẩm cần gạo giá rẻ, giàu tinh bột. Chúng tôi không thiếu gạo. Phần lớn diện tích lúa trong nước hiện nay được dành cho các giống gạo chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Thị trường quốc tế đang trả giá cao cho các giống gạo thơm của Việt Nam. ST25, từng đoạt giải ‘Gạo ngon nhất thế giới’, hiện có giá cao vượt trội so với gạo trắng thông thường. Điều đó chứng tỏ thương hiệu Việt đã bắt đầu có chỗ đứng trên bàn ăn của thế giới” ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) chia sẻ với Sputnik.

Không chỉ là thương hiệu, gạo Việt Nam còn đang được hậu thuẫn bởi lợi thế hạ tầng và năng lực điều phối chuỗi cung ứng. Việc linh hoạt nhập lúa từ Campuchia vào giai đoạn giáp vụ giúp duy trì sản xuất không đứt gãy, đảm bảo tiến độ giao hàng. Điều mà không phải quốc gia xuất khẩu nào cũng làm được.
Có thể thấy, đằng sau sự tăng giá ấn tượng của gạo Việt Nam là một quá trình chuyển đổi kéo dài hơn một thập kỷ. Từ nền nông nghiệp thiên về sản lượng sang một mô hình sản xuất theo chuỗi giá trị.
Việt Nam vừa nhập khẩu, vừa xuất khẩu gạo nhiều thứ hai thế giới
Việt Nam từng chọn con đường sản lượng, với thành tích hàng chục triệu tấn/năm, xuất khẩu đứng top thế giới. Nhưng cái giá phải trả là gạo không có thương hiệu, giá thấp, nông dân lời ít, tài nguyên môi trường kiệt quệ.
Còn hiện tại, đất nước Đông Nam Á này đang thử nghiệm một hướng đi mới với giá trị cao, sản phẩm tinh hơn, thương hiệu riêng. Nhưng nếu không củng cố được nền tảng: từ giống, sản xuất, thu hoạch đến tiêu chuẩn hóa thì giá trị đó sẽ mong manh, dễ bị phá vỡ bởi một chính sách từ nước ngoài, hay một mùa vụ thất bát trong nước.
Chính sự chuyển dịch ấy đã giúp Việt Nam có thể “lội ngược dòng” khi Thái Lan và Ấn Độ giảm giá, bởi họ vẫn chơi theo ván cờ cũ, nơi gạo là hàng hóa phổ thông, giá thấp quyết định tất cả.
“Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp Việt Nam có nhiều lợi thế như hệ thống logistics phát triển, năng lực xử lý đơn hàng lớn, và mối quan hệ tốt với các thị trường trọng điểm như Trung Quốc và nhiều nước trong khu vực. Đặc biệt, vào các giai đoạn giáp vụ, việc nhập khẩu linh hoạt từ Campuchia giúp duy trì chuỗi cung ứng và đảm bảo tiến độ giao hàng”, vị chuyên gia nhận định.

Giá cao không đồng nghĩa với rủi ro thấp

Tuy giữ vững mức giá dẫn đầu, gạo Việt vẫn phải đối mặt với những biến động không thể xem thường. Việc Philippines - thị trường chiếm hơn 40% lượng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu là một cú cảnh báo: thị trường thế giới không mua giá, mà mua giá trị thực sự.
Bộ Công Thương họp khẩn, Philippines ngỏ lời nhưng Việt Nam chưa dám bán
Và giá trị đó phải được bảo chứng bằng chất lượng ổn định, năng lực giao hàng, và uy tín thương hiệu, mà không thể chỉ dựa vào may mắn hay thời điểm.
Dù vậy, Việt Nam vẫn đang thể hiện sự chuẩn bị dài hơi. Hiệp hội Lương thực Việt Nam vẫn tự tin dự báo trong năm 2025, Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 8,8 triệu tấn gạo, giữ vững vị trí quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới, một thành tích được Thái Lan đặc biệt ngưỡng mộ khi nước này giảm tới 30% sản lượng gạo xuất khẩu.

“Chúng tôi dự báo năm 2025, Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 8,8 triệu tấn gạo, tiếp tục giữ vững vị trí nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Gạo Việt Nam hiện được thị trường quốc tế đánh giá cao, với giá xuất khẩu bình quân đạt 514 USD/tấn. Đặc biệt, các dòng gạo thơm như ST ngày càng khan hiếm do cung không đủ cầu, càng chứng minh giá trị thương hiệu Việt”, đại diện VFA cho biết.

Gạo Việt Nam hiện chủ yếu xuất sang ASEAN, chiếm hơn 70% tổng lượng xuất khẩu. Dù xuất khẩu sang Trung Quốc sụt giảm mạnh, nhưng cơ hội tại châu Phi và Trung Đông đang mở ra.
Lệnh cấm của Philippines và phản ứng của Việt Nam
Vấn đề như chuyên gia nhấn mạnh, không phải mở rộng sản lượng bằng mọi giá, mà là nâng cao chất lượng, đa dạng hóa thị trường, và tối ưu giá trị trên mỗi tấn gạo xuất khẩu.
“Về dài hạn, muốn giữ vững vị thế xuất khẩu, Việt Nam cần tiếp tục phát triển giống gạo chất lượng cao và mở rộng vùng nguyên liệu. Chương trình xây dựng ‘siêu vùng nguyên liệu’ với 1 triệu ha lúa chất lượng tại ĐBSCL đang được triển khai hiệu quả. Các thị trường như châu Phi đang tăng tốc nhập khẩu gạo Việt. Tôi cho rằng, các bộ ngành cùng phối hợp đẩy mạnh xúc tiến thị trường tại Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Phi, những khu vực còn rất nhiều tiềm năng”, Phó Chủ tịch VFA nêu đề xuất.
Biến đổi khí hậu, khủng hoảng lương thực, chiến tranh, chính sách bảo hộ, thế giới sẽ còn biến động.
Giá gạo Việt Nam có thể lên, rồi xuống. Nhưng điều quan trọng hơn là Việt Nam chọn lối đi: không bán giá, mà bán giá trị.
Giá trị ấy nằm trong từng hạt gạo. Và khi đã bán được giá trị, thì dù có sóng gió từ thị trường, gạo Việt vẫn đứng vững.
Thảo luận