1,7 triệu người Việt đã rời Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam nên làm gì?

Theo số liệu Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, ĐBSCL là nơi sinh sống của khoảng 18 triệu dân nhưng đã có hơn 1,7 triệu dân đã rời khỏi Đồng bằng sông Cửu Long trong thập kỷ qua, chủ yếu là để đi tìm việc làm.
Sputnik
Vấn đề “Ở lại hay di cư” không đặt người dân trước một lựa chọn đối nghịch, mà nhằm hướng tới câu hỏi cốt lõi rằng, làm thế nào để người dân ĐBSCL có cuộc sống tốt hơn, an toàn hơn và có cơ hội phát triển, dù họ quyết định ở lại hay rời đi tìm kiếm sinh kế.

Ngã rẽ quan trọng

Chiều 17/12, tại TP Cần Thơ, Ngân hàng Thế giới (WB) công bố báo cáo chuyên đề mang tên “Ở lại hay di cư: Cuộc sống vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam”.
Báo cáo đưa ra nhiều cảnh báo về tính bấp bênh trong sinh kế và đời sống của người dân Đồng bằng sông Cửu Long, dù đây là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm – được coi là “vựa lúa chính” của cả Việt Nam.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện là nơi sinh sống của khoảng 18 triệu người, trong đó nông nghiệp vẫn là nguồn sinh kế chủ yếu. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy đời sống người dân trong vùng đang phụ thuộc vào một nền nông nghiệp thiếu ổn định, trong khi thu nhập từ các lĩnh vực phi nông nghiệp như công nghiệp và dịch vụ vẫn ở mức thấp.
Thu nhập ngoài nông nghiệp chưa đủ cao để bù đắp rủi ro, trong khi sản xuất nông nghiệp lại thường xuyên chịu tác động từ các “cú sốc” về môi trường và dịch bệnh. Thực tế này đặt ra câu hỏi lớn rằng “Đồng bằng sông Cửu Long phải làm gì để người dân có thể ổn định cuộc sống trong bối cảnh hiện nay?”.
Bà Mariam J. Sherman, Giám đốc WB tại Việt Nam, Campuchia và Lào, nhận định Đồng bằng sông Cửu Long đang đứng trước một “ngã rẽ quan trọng”. Từ một vùng từng là điểm sáng về giảm nghèo và đảm bảo an ninh lương thực, ĐBSCL nay phải đối mặt với nhiều thách thức chồng chất liên quan đến biến đổi khí hậu, kinh tế và y tế.
World Bank định cho Việt Nam vay hơn 11 tỷ USD trong 5 năm tới
Theo bà Sherman, kể từ năm 2018, các hộ gia đình trong vùng liên tục hứng chịu những tác động nghiêm trọng của hạn hán, xâm nhập mặn, sau đó là đại dịch Covid-19. Những cú sốc nối tiếp nhau khiến nhiều hộ gia đình chưa kịp phục hồi đã tiếp tục bị tổn thương, cạn kiệt tiết kiệm, buộc phải bán tài sản và rơi vào trạng thái dễ bị tổn thương kéo dài.
Báo cáo của WB cũng chỉ ra một nghịch lý ở khu vực này của Việt Nam – theo đó, nông nghiệp vẫn là sinh kế chính nhưng không còn đóng vai trò động lực tăng trưởng chủ đạo, trong khi đầu tư tư nhân và các ngành công nghiệp – dịch vụ phát triển chậm. Đáng chú ý, gần một nửa dân số ĐBSCL đang sinh sống tại các khu vực có rủi ro cao về lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn và sụt lún đất.
Bà Sherman nhấn mạnh, tiêu đề “Ở lại hay di cư” không đặt người dân trước một lựa chọn đối nghịch, mà nhằm hướng tới câu hỏi cốt lõi rằng, làm thế nào để người dân ĐBSCL có cuộc sống tốt hơn, an toàn hơn và có cơ hội phát triển, dù họ quyết định ở lại hay rời đi tìm kiếm sinh kế".

‘Âm và dương’

Theo Kinh tế Sài Gòn dẫn lời TS Paul A. Corral Rodas, Chuyên gia kinh tế cao cấp khu vực Đông Á – Thái Bình Dương của WB, người dân ĐBSCL đang phải đối mặt đồng thời với các cú sốc môi trường và dịch bệnh, trong khi nông nghiệp vẫn là sinh kế chính.
Đại diện Ngân hàng Thế giới trình bày bản báo cáo nội dung "Ở lại hay di cư: Ccuộc sống vùng Đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam"
Điều này khiến thu nhập khó có thể giúp họ thoát nghèo một cách bền vững, dù năng suất và thu nhập từ nông nghiệp của vùng cao hơn mức bình quân cả nước.
Cụ thể, thu nhập bình quân từ nông nghiệp tại ĐBSCL đạt khoảng 25 triệu đồng/người, trong khi mức trung bình cả nước là 20 triệu đồng/người, theo báo cáo WB. Tuy nhiên, mức thu nhập này vẫn không đủ tạo ra tích lũy ổn định cho người dân.
Đặt vấn đề từ góc độ thị trường, TS Dương Văn Ni, một chuyên gia tại ĐBSCL băn khoăn,“vì sao giá lúa gạo toàn cầu không tăng?”. Ông cho biết, Việt Nam xuất khẩu gạo từ năm 1989 đến nay, đặc biệt trong 20 năm gần đây, nhưng giá lúa chưa bao giờ vượt 10.000 đồng/kg.
Theo ông, nếu tính đến yếu tố lạm phát trong vòng 20 năm qua, thì giá lúa hiện tại thực chất đang ở mức âm.
“Một ngành sản xuất mà giá cả thị trường bắt đầu từ con số âm thì làm sao người dân có thể tích lũy dương được”, chuyên gia phân tích.
Trong khi đó, ông Paul A. Corral Rodas cho biết thu nhập từ công nghiệp và dịch vụ tại ĐBSCL cũng thấp hơn đáng kể so với nhiều vùng khác và so với bình quân cả nước. Cụ thể, thu nhập từ dịch vụ và công nghiệp tại ĐBSCL lần lượt ở mức khoảng 30 và 34 triệu đồng/người, trong khi con số này của cả nước là 49 và 52 triệu đồng/người.
Việt Nam: Những người con đi lao động nước ngoài gửi tiền về xây nhà
Điều này cho thấy lao động phi nông nghiệp tại ĐBSCL chủ yếu vẫn làm các công việc có năng suất và thu nhập thấp.
“Họ nhận được thu nhập ngoài nông nghiệp thấp hơn, khiến các hộ gia đình ở ĐBSCL dễ bị tổn thương hơn khi đối mặt với các cú sốc về môi trường và dịch bệnh”, ông Paul A. Corral Rodas lưu ý.
Thực trạng này đang đẩy ĐBSCL đứng trước nguy cơ “tái nghèo”, đúng như cảnh báo của bà Mariam Sherman rằng thành quả giảm nghèo của vùng đang trở nên “mong manh”.
Theo báo cáo, tỷ lệ hộ nghèo tại ĐBSCL năm 2010 ở mức 49%, giảm xuống còn 18,4% vào năm 2018. Tuy nhiên, đến năm 2020, con số này tăng lên 24,8%, và tiếp tục tăng lên 27,8% vào năm 2022, cao hơn nhiều so với mức 19,7% của cả nước (tính theo chuẩn nghèo chi tiêu dưới 6,85 USD/người/ngày, theo ngang giá sức mua năm 2017).

Di cư để tìm việc làm

Trước bối cảnh tương lai nhiều bất định, WB đề xuất 5 lĩnh vực chính sách ưu tiên nhằm phát triển ĐBSCL:
1.
Thứ nhất, đầu tư vào giáo dục và phát triển kỹ năng, đặc biệt là cho thanh niên.
2.
Thứ hai, hiện đại hóa và chuyển đổi nông nghiệp theo hướng giảm lao động, tăng khả năng thích ứng và lợi nhuận.
3.
Thứ ba, đầu tư vào hạ tầng địa phương để thu hút doanh nghiệp, tăng kết nối và giảm chi phí giao dịch cho nông dân.
4.
Thứ tư, thúc đẩy di cư an toàn, tự nguyện như một chiến lược thích ứng.
5.
Thứ năm, xây dựng hệ thống an sinh xã hội linh hoạt, hỗ trợ các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là những người không thể hoặc không muốn di cư.
WB khẳng định sẽ tiếp tục đồng hành cùng Việt Nam thông qua các dự án phát triển hạ tầng giao thông, quản lý đất và nước, nhằm nâng cao khả năng chống chịu và kết nối của vùng.
Báo cáo cũng cho biết, trong 10 năm qua, gần 1,7 triệu người đã rời khỏi ĐBSCL, chủ yếu do điều kiện sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản ngày càng khó khăn, trong khi vùng lại nằm gần các trung tâm việc làm lớn như TP.HCM.
Sự thật về ‘1,6 triệu thanh niên Việt Nam không việc làm, không học tập, đào tạo’
Khảo sát Cuộc sống ĐBSCL năm 2024 cho thấy khoảng 14% hộ gia đình có ít nhất một người di cư, chủ yếu để tìm việc làm.
“Di cư phổ biến hơn ở các hộ thu nhập thấp, những hộ thường phụ thuộc nhiều vào tiền gửi về từ người thân làm ăn xa. Đối với các hộ nông nghiệp, di cư trở thành cách để bù đắp phần thu nhập bị mất do thiên tai”, báo cáo thể hiện.
Theo ông Paul A. Corral Rodas, cần lấy con người làm trung tâm trong các khoản đầu tư, nhằm kết nối với thị trường và bảo vệ họ trước các cú sốc.
Ông nhấn mạnh vai trò then chốt của việc đầu tư vào giáo dục và kỹ năng cho người dân ĐBSCL. Khi lao động trẻ rời khỏi nông nghiệp, họ cần có đủ năng lực để tiếp cận những công việc có thu nhập cao hơn, qua đó thay đổi thực trạng hiện nay.
Với lĩnh vực nông nghiệp, ông cho rằng cần thúc đẩy chuyển đổi và hiện đại hóa, giúp ngành này thích ứng tốt hơn với biến đổi khí hậu thông qua việc phát triển giống mới, nâng cao chất lượng dịch vụ nông nghiệp.
“Nông nghiệp cần phải hiện đại để thu hút người trẻ và nhà đầu tư, phù hợp hơn với một thế giới đã thay đổi”, ông nói.
Bên cạnh đó, việc tăng cường kết nối và giảm chi phí logistics được xem là giải pháp quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, thu hút đầu tư và gia tăng giá trị cho nông nghiệp vùng.

Quan trọng là sống tốt hơn, bất kể di cư hay ở lại

Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, cho rằng vấn đề cốt lõi của ĐBSCL không nằm ở câu hỏi “ở lại hay di cư”, mà là làm sao để người dân có thể sống tốt hơn, dù họ lựa chọn ở đâu.
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó trưởng Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương, phát biểu tại buổi công bố bản báo cáo
Ông cho biết hội nghị diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đang sơ kết ba năm thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển ĐBSCL, đồng thời vùng vừa trải qua những điều chỉnh lớn về tổ chức không gian hành chính.
Việc sắp xếp lại đơn vị hành chính không chỉ là thay đổi địa giới, mà còn mở ra không gian mới cho điều phối phát triển, quy hoạch tích hợp và quản trị vùng hiệu quả hơn.
Theo ông Tuấn, ba định hướng lớn cần được tập trung gồm: hoàn thiện thể chế điều phối phát triển vùng, bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương; thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh, giá trị cao và bền vững; và lấy đầu tư cho con người làm trung tâm của chiến lược thích ứng và phát triển.
Ở góc độ địa phương, ông Trương Cảnh Tuyên, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, bày tỏ kỳ vọng trong 10-20 năm tới, ĐBSCL sẽ đạt được tăng trưởng đi đôi với chất lượng phát triển, dựa trên kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số và đổi mới sáng tạo, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ông mong muốn lãnh đạo và người dân chuyển đổi tư duy từ ứng phó bị động sang chủ động thích ứng, coi điều kiện tự nhiên, hệ sinh thái và văn hóa sông nước là lợi thế phát triển.
“Chúng tôi hy vọng trong 20 năm tới, TP Cần Thơ nói riêng và ĐBSCL nói chung, mức sống người dân phải được thụ hưởng cả về vật chất và tinh thần. ĐBSCL trở thành vùng đáng sống, có thành phố đáng sống, vùng quê đáng sống, như vậy việc “ở lại hay di cư” người ta sẽ suy nghĩ lại. Không chỉ người ĐBSCL đã ra đi sẽ quay về mà tất cả người dân trên cả nước, trên thế giới đến với ĐBSCL, với TP Cần Thơ trong tương lai. Chúng tôi rất kỳ vọng”, ông Tuyên khẳng định.
Thảo luận