Trang tin của Căn cứ không quân Malmstrom (bang Montana, Không lực Mỹ) ngày 5.1 vừa qua đăng bài về sự việc xảy ra hơn 60 năm trước, qua lời kể của cựu binh Bob Cunningham.
Theo đó, vào năm 1956, ông Cunningham khi đó là một quân nhân điều hành radar của Không lực Mỹ cùng 3 người khác được trực thăng từ một tàu đổ bộ thả xuống một đảo hoang trong rạn Nguy Hiểm phía Bắc (North Danger Reef), thuộc cụm Song Tử trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Trước đó không lâu đã có một nhóm kỹ thuật viên chuyển tiếp vô tuyến đã đến đảo và lập cơ sở tạm thời.
Nhiệm vụ của nhóm Cunningham là điều hành một trạm radar và thông tin liên lạc, phục vụ cuộc khảo sát trắc địa điện tử trên không để vẽ bản đồ trái đất phục vụ nhiệm vụ bí mật của Không lực Mỹ. Các máy bay với trang bị đặc biệt sẽ bay theo mô hình lưới điện và gửi các xung điện từ theo các vị trí góc tam giác đến các trạm thu nhận tín hiệu mặt đất tạm thời cách đó hàng trăm km. Các dữ liệu thu thập được máy tính tính toán thành các tọa độ với độ chính xác cao, nhằm cung cấp thông tin mục tiêu cho việc phát triển tên lửa đạn đạo liên lục địa của Không lực Mỹ.
Nhóm của ông Cunningham (khi đó ông mới 22 tuổi) được thả lên hòn đảo hoang có kích thước dài khoảng 600 m và ngang 250 m trên rạn Nguy Hiểm phía Bắc này, nằm giữa Việt Nam và Philippines trên Biển Đông. Họ trú ngụ trong lều vải và phải đốn bớt các cây dừa trên đảo, lắp đặt máy móc… Việc tiếp tế được trực thăng đảm nhiệm từ 4 — 6 tuần một lần, cung cấp thực phẩm, nước uống, nhiên liệu, thuốc men; thỉnh thoảng các đợt tiếp tế còn được thả xuống bằng dù.
Ông Cunningham, nay đã 82 tuổi, nhớ lại lúc đó:
"Tôi khi đó 22 tuổi, chỉ là đứa trẻ trên hòn đảo nên đó là một kinh nghiệm thực tế. Tôi không có nhiều sự tinh tế về tâm lý, và đó là một bài kiểm tra tâm lý thực sự cho con người để đến một nơi như thế".
Theo mô tả của Cunningham, đảo có nhiều cây dừa, cây cọ; bãi biển với cát trắng. Trên đảo còn có 1 cái giếng cũ. Lính Mỹ thường uống nước dừa như một thứ cocktail. Và theo Cunningham, thời gian đó không phải là một cuộc phiêu lưu du lịch.
Để giữ bí mật, những quân nhân của Không lực Mỹ trên đảo không mặc quân phục mà chỉ mặc đồ dân sự như quần short, mang giày thể thao, dép xăng-đan, đội mũ cao bồi. Họ được trang bị súng lục và súng trường M-1 Garand để đề phòng hải tặc và các mối đe dọa khác.
Trong thời gian ở trên đảo, nhóm của Cunningham gặp một số vị "khách không mời mà tới". Đó là một tàu chiến của Trung Quốc, với khẩu pháo cỡ 76 mm trước mũi tàu cùng nhiều súng máy. Chiếc tàu chiến này tiếp cận gần đảo, thả vài xuồng chở lính đến rìa đảo để xem nhóm của Cunningham là ai và đang làm gì.
Nhóm quân nhân Mỹ liền dùng các tàu lá cọ xếp thành chữ USAF (Không lực Mỹ) trên bãi biển. Tốp lính Trung Quốc từ xa nhìn thấy, có vẻ hài lòng và rời đi.
Một lần nọ, một nhóm ngư dân từ Okinawa (Nhật Bản) ghé vào đảo để đổi cá lấy nước uống. "Họ nhìn thấy cây ăng-ten cao 15 m của dàn radar, cùng thiết bị thu phát sóng vô tuyến dựng trên đảo, khiến họ rất tò mò. Tuy vậy họ khá thân thiện", ông Cunningham nói.
Thế nhưng việc viếng thăm như kể trên là rất hiếm hoi, còn chủ yếu mối tương tác chỉ diễn ra trong phạm vi của nhóm lính thuộc 2 tổ trên đảo.
Thời gian này xảy ra mâu thuẫn giữa hai trung sĩ thuộc 2 nhóm, khi người này doạ giết người kia. Viên trung sĩ kỹ thuật thuộc nhóm của Cunningham nghĩ rằng anh ta sẽ phải đối đầu với người của nhóm kỹ thuật vô tuyến, và cảnh báo Cunningham cùng các đồng nghiệp điều khiển radar rằng tình hình có thể xấu đi và cả nhóm nên sẵn sàng sử dụng vũ khí.
Tuy nhiên vụ căng thẳng đã không xảy ra nhờ sự bình tĩnh dàn xếp của hai nhóm. Ông Cunningham nói rằng khi đó họ cũng lúng túng không biết giải quyết ra sao, hoặc phải gọi cho cấp trên đưa thuỷ phi cơ chở quân cảnh đến bắt giữ người gây rối, hay trói anh ta vào gốc cây dừa. May sao họ không phải làm điều đó.
Nhằm giữ vững tinh thần của nhóm, những người lính có thâm niên nghĩ ra những cách như cải tiến cơ sở đóng quân với những dấu hiệu buồn cười, tự làm đồ nội thất thủ công, chế tạo máy bơm nước hoạt động bằng sức gió, chế biến món ăn từ rùa biển. Thậm chí họ còn chế ra một loại rượu cocktail làm từ nước dừa, làm bánh…
Để giải trí, ông Cunningham nhiều lần đi bộ quanh đảo và chụp ảnh đàn chim hàng ngàn con tụ tập trên đảo. Ông cũng có lần lặn biển ra khỏi rạn và đó là nỗi kinh hoàng khi ông nhìn xung quanh chỉ toàn màu đen kịt, không thấy đường. Và ông vội vã quay vào bờ, không có lần lặn biển thứ hai.
Nhóm lính Mỹ này hoạt động trên hòn đảo khoảng 6 tháng vào năm 1956. Đến tháng cuối cùng chỉ còn Cunningham và 1 người khác, những người kia đã được Không lực Mỹ đưa đi trước đó, kể cả nhóm kỹ thuật viên vô tuyến cùng với cái máy phát điện thường nổ ầm ĩ. Với hai người còn lại, hòn đảo trở nên yên ắng cực kỳ vào ban đêm. Thậm chí tiếng của một quả dừa rụng xuống đất cũng vang rất to khiến cả hai phải chộp lấy vũ khí.
Theo ông Cunningham, 6 tháng sống trên rạn san hô ở giữa Biển Đông đã làm thay đổi mối quan hệ của ông với mọi người xung quanh, khi ông lấy kinh nghiệm sống trong khoảng thời gian ở đó để đánh giá, kết thân với người khác.
"Đó là nếu ai đó có tư chất thông minh, tương thích "như gã ở trên rạn Nguy Hiểm phía Bắc" thì bạn có thể kết thân với anh ta; hoặc với người khác thì tôi sẽ không muốn ở chung với anh ta trên rạn Nguy Hiểm phía Bắc".
Nguồn: thanhnien.vn