Vào cuối thế kỷ 19, những người lính Lê dương Nga chủ yếu là cư dân khu vực phía Tây của Đế chế Nga, rời bỏ đất nước vì những nguyên do kinh tế-xã hội hoặc dân tộc-tín ngưỡng và xung vào đoàn quân lê-dương ở Pháp. Còn vào đầu thế kỷ 20, người sinh viên Dmitry Yazev đã đầu quân làm lính Lê dương ngay tại Việt Nam. Thời đó, ông cùng với bạn bè đi du ngoạn đến Trung Quốc, sau đó đến Bắc Bộ. Ở đó, khi hết tiền mang theo, Dmitry đăng lính Lê dương và phục vụ trong quân ngũ toàn bộ thời hạn hợp đồng — là 5 năm. Khi trở về Nga, ông đã nói rất nhiều về đất nước của các bạn, về vẻ đẹp thiên nhiên kỳ thú của Việt Nam. Ông thường hồi tưởng đến chuyện một người lính lê dương cùng đơn vị của ông đứng gác đã bị một con hổ tấn công và tha vào rừng rậm.
Sau các sự kiện cách mạng năm 1917 và cuộc nội chiến, hàng trăm ngàn người đã từ bỏ nước Nga di tản, hầu hết trong số đó thuộc giới quân sự. Nhiều người lâm vào hoành cảnh khó khăn về vật chất buộc phải lưu vong đã gia nhập đội quân Lê dương. Ở Việt Nam, vào năm 1921 đã có 107 người lính Lê dương-Nga, cho đến năm 1929 đã tuyển mộ thêm 129 binh sĩ.
Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều binh sĩ của quân đội Liên Xô đã bị phát xít Đức bắt làm tù binh, và sau thất bại của Đức, họ lưu lại trên phần lãnh thổ của nước này do quân Đồng minh- Hoa Kỳ, Anh và Pháp kiểm soát. Cảnh bần cùng buộc họ phải gia nhập quân đoàn viễn chinh nước ngoài.
Ở Việt Nam, một trong số họ, cựu phi công Biblichenko đã làm việc tại sân bay Gia Lâm. Ở đó, ông đã chiếm được một chiếc phi cơ quân sự Pháp và bay sang phía quân du kích tại tỉnh Yên Bái. Nhưng trong khi mọi người đang vui mừng bắt tay chào hỏi thân thiện thì một máy bay Pháp khác bay đến ném bom vào chiếc phi cơ vừa bị chiếm.
Cũng trong tiểu đoàn cùng chiến đấu chống Pháp còn có một người lính Lê dương khác là Platon Skrzhinskiy. Vào năm 1946, tại Pháp ông đã gia nhập quân đoàn Lê dương và được gửi đến Việt Nam. Ông Platon phục vụ ở Vĩnh Long, và sau đó tại Bến Tre — là tài xế xe tải quân sự. Ông đã thiết lập liên lạc với đại diện của du kích và mùa hè năm tới chuyển sang phía Việt Minh. Ông được đặt tên Việt Nam là Thành. Ông là một xạ thủ, chỉ huy đội công binh. Tám năm liền ông đi trên những con đường mòn của lực lượng du kích miền Nam. Thời gian đó, ông gặp một người con gái Bến Tre tên là Mai và kết hôn với bà vào năm 1948. Một năm sau, con gái của họ là Janine ra đời.
Vào năm 1955, trước khi Platon quay về Liên Xô, ông được mời đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch nước Việt Nam đích thân viết thư cho Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, công nhận sự đóng góp của "đồng chí Thành" đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tại Matxcơva, Platon-Thành làm phiên dịch tiếng Việt ở Ban Việt ngữ Đài phát thanh đối ngoại Matxcơva, như tên gọi đài "Tiếng nói nước Nga" dưới thời Xô Viết, hiện nay là "Sputnik".
Là người biết tiếng Việt giỏi, hiểu rõ phong tục tập quán của người Việt Nam, ông là cố vấn cho hàng chục chuyên gia Việt Nam học trẻ tuổi của Liên Xô. Trước khi qua đời vào năm 2003, ông đã có cơ hội một lần nữa sang Việt Nam thăm đồng đội cũ và bà con của người vợ quá cố.
Cả con gái của Platon- Thành là Janine cũng đã sang thăm nơi bà ra đời và trải qua thời thơ ấu. Bà Janine cũng là nhân viên Ban Việt ngữ của Đài phát thanh Matxcơva và "Tiếng nói nước Nga". Hiện nay bà nghỉ hưu sống ở Matxcơva, nuôi dạy các cháu. Bà Janine gửi lời chào thân ái đến người thân của mình ở Việt Nam, và tất cả độc giả trên trang web của chúng tôi.
Bà Janine nói:
"Suốt cuộc đời mình, cha tôi đã gìn giữ tình yêu và sự tôn trọng đối với đất nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam, tưởng nhớ những người đồng đội ngày xưa. Ông đã thường xuyên kể về những năm tháng ông đã trải qua trên đất nước của các bạn, cũng là nơi ông xem là đất nước quê hương của mình. Việt Nam cũng là mảnh đất chôn rau cắt rốn của tôi."