Thiết bị quân sự gửi từ Liên Xô sang Việt Nam là tiên tiến nhất của thời điểm đó. Ví dụ, phản lực chiến đấu cơ "MiG" — mà các phi công Việt Nam điều khiển để bắn hạ cả "F-105" lẫn "pháo đài bay" "B-52" của Mỹ. Tổ hợp tên lửa phòng không "Dvina" có khả năng bắn trúng mục tiêu trên không, ngay cả khi ở độ cao 25 km. "Đây là những quả đạn tử thần được phóng lên từ mặt đất để diệt máy bay", — như "Tạp chí quân sự-kỹ thuật" Mỹ thời ấy đã nêu nhận xét.
Trong giai đoạn đầu tiên của chiến tranh, các vũ khí, thiết bị quân sự và vật tư khác được chuyển tới Việt Nam chủ yếu là bằng đường sắt thông qua lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, thời đó quan hệ Xô-Trung không mấy thân thiện. Những toa tàu với hàng hóa từ Liên Xô thường xuyên bị gỡ niêm phong, các thiết bị quân sự bí mật phải chịu sự kiểm tra bất hợp pháp của chuyên gia Trung Quốc, nhiều lô hàng cơ bản là bị đánh cắp. Trong tương quan đó, ban lãnh đạo Xô-viết đã quyết định đưa hàng tới Việt Nam bằng đường biển, trực tiếp từ các hải cảng của Liên Xô.
Các thủy thủ Liên Xô chuyển hàng bằng hai tuyến đường. Tuyến ngắn — từ cảng Viễn Đông, vượt qua khoảng 3.000 hải lý và mất 10 ngày đêm. Tuyến dài từ các cảng vùng Biển Đen. Do việc đóng cửa tàu kênh đào Suez hồi ấy, tàu bè từ Biển Đen buộc phải đi vòng qua châu Phi, tức là kéo dài hành trình thêm 14.000 hải lý, tức là xa thêm đến 26.000 km. Lộ trình này mất 45 ngày đêm.
Trong những năm không quân Mỹ dội bom xuống miền Bắc Việt Nam, trung bình mỗi tháng có 40 con tàu Liên Xô đi theo những lộ trình này tới Việt Nam và neo lại bốc dỡ hàng tại các cảng Hải Phòng, Hòn Gai và Cẩm Phả. Các tuyến đường ở đoạn cuối thực sự là hành trình chiến đấu. Bởi tàu phải qua các vùng biển mà Hoa Kỳ coi là khu vực hoạt động chiến sự của mình. Và nếu trong thời chiến tranh đó, tổn thất chuyên gia quân sự Liên Xô trực tiếp tại vị trí chiến đấu ở Việt Nam là 4 người, thì thương vong của các thủy thủ dân sự Liên Xô đảm trách mang hàng viện trợ sang Việt Nam là 7 người.