Tòa đã tuyên án phạt bị cáo Từ Thành Nghĩa (sinh năm 1962, nguyên Tổng Giám đốc VSP) 3 năm 6 tháng tù, bị cáo Võ Quang Huy (sinh năm 1961, nguyên Chánh kế toán VSP) 7 năm tù về cùng tội "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại Điều 355, khoản 4, điểm a — Bộ luật Hình sự năm 2015.
Bản án sơ thẩm nhận định, Liên doanh Việt — Nga Vietsovpetro (VSP) tiền thân là Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Vietsovpetro, là một tổ chức kinh tế được thành lập ngày 19/6/1981 và hoạt động theo Hiệp định liên Chính phủ giữa Việt Nam và Liên Xô trước đây, nay là Liên bang Nga. Tổ chức và hoạt động của VSP chịu điều chỉnh của điều ước quốc tế mà Chính phủ hai bên đã ký kết (gọi là các Hiệp định liên Chính phủ). Ngoài ra, hoạt động của VSP còn tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định khác. Theo Hiệp định gần nhất giữa Việt Nam và Liên bang Nga ký kết ngày 27/10/2010, thời hạn hoạt động của VSP đến năm 2030; vốn điều lệ của VSP là 1,5 tỷ USD, trong đó Chính phủ Việt Nam góp 51% (tương đương 765 triệu USD) và Chính phủ Liên bang Nga góp 49% (tương đương 735 triệu USD).
Với vai trò là lãnh đạo VSP, có ảnh hưởng trong việc gửi tiền tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương (OceanBank), trong các năm 2013 và 2014, 2 bị cáo Võ Quang Huy và Từ Thành Nghĩa đã quyết định việc gửi tiền của VSP vào OceanBank. Cụ thể, từ tháng 7/2013 đến năm 2014, Từ Thành Nghĩa đã sử dụng các tài khoản và ký 10 hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn VNĐ với tổng số 1.900 tỷ đồng và 5 hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn USD với tổng số 55 triệu USD. Võ Quang Huy đã ký duyệt và đề xuất gửi tiền, ký nháy và trình Tổng Giám đốc ký tất cả các hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn tại OceanBank Chi nhánh Vũng Tàu.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nghĩa đã xác nhận số lần, thời gian, địa điểm và số tiền đã nhận đúng như lời khai của Thu, với tổng số tiền 1,5 tỷ đồng và 30.000 USD (tổng trị giá hơn 2,1 tỷ đồng), như cáo trạng đã truy tố.
Đối với bị cáo Võ Quang Huy, cáo trạng truy tố Huy đã nhận và chiếm đoạt 5,2 tỷ đồng và 130. 000 USD (tổng trị giá hơn 7.9 tỷ đồng). Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Huy chỉ khai đã nhận số tiền hơn 4,1 tỷ đồng. Mặc dù lời khai của Thu và Huy về thời gian, địa điểm, số lần nhận tiền phù hợp nhau nhưng không phù hợp về số tiền. Việc chia tiền, đóng gói tiền được Thu thực hiện một mình, không có sự kiểm tra, đối chứng nào khác. Ngoài lời khai của Thu về việc đưa số tiền như trên cho Huy, không còn tài liệu, chứng cứ trực tiếp nào khác thể hiện số tiền Thu đưa cho Huy đúng như số tiền mà Thu đã khai. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy chưa đủ cơ sở vững chắc để kết luận Huy đã nhận từ Thu số tiền 5,2 tỷ đồng và 130.000 USD. Tuy nhiên, Tòa cũng kết luận, có đủ cơ sở khẳng định Huy đã nhận từ Thu số tiền 70.000 USD và 2,7 tỷ đồng (tổng trị giá hơn 4,1 tỷ đồng) và bị cáo đã chiếm đoạt số tiền trên sử dụng vào mục đích cá nhân.
Xét hai bị cáo phạm tội lần đầu, có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác, nộp lại số tiền đã chiếm đoạt; xét hai bị cáo có quá trình công tác nhiều năm, có nhiều đóng góp cho ngành Dầu khí, được khen thưởng nhiều thành tích phấn đấu trong công tác… nên Hội đồng xét xử đã xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho hai bị cáo.
Ngoài án phạt tù, Tòa còn tuyên cấm 2 bị cáo đảm nhiệm chức vụ quản lý trong cơ quan, doanh nghiệp có vốn của Nhà nước trong thời gian 3 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù.