Tiếp đến Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo thuyết minh Công ước số 98 của Tổ chức Lao động quốc tế về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo thẩm tra về việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động quốc tế về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể.
Theo báo cáo tóm tắt của Chính phủ, Công ước số 98 về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể là một trong tám công ước cơ bản của Tổ chức ILO. Tính đến tháng 5/2019, trên thế giới đã có 166 trong tổng số 187 quốc gia thành viên của ILO tham gia Công ước này. Việc Việt Nam gia nhập Công ước số 98 là rất cần thiết và có ý nghĩa, cụ thể như sau:
Trong nền kinh tế thị trường, tiền lương và điều kiện lao động của người lao động được thực hiện dựa trên thỏa thuận giữa người sử dụng lao động và tập thể người lao động, do vậy điều quan trọng là cần thúc đẩy thương lượng tập thể một cách thực chất và hiệu quả, nhất là thương lượng tập thể về tiền lương, nhằm xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ.
Gia nhập và thực hiện Công ước 98 chính là thể chế hóa chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.
Việc gia nhập Công ước 98 là thực hiện nghiêm túc nhiệm vụ của Việt Nam với vai trò là thành viên của Tổ chức ILO; nhằm tăng cường cam kết chính trị và thực thi thực chất các cam kết liên quan đến lao động trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc tham Hiệp định thương mại tự do với Liên minh Châu Âu (EVFTA).
Nội dung của Công ước số 98 bao gồm những quy định về ba yếu tố đóng vai trò quan trọng để thương lượng tập thể được tiến hành một cách thực chất và hiệu quả trên thực tế.
Cụ thể: Thứ nhất là bảo vệ người lao động và công đoàn trước các hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn. Điều 1 Công ước số 98 quy định người lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng trước những hành vi phân biệt đối xử liên quan đến mọi khía cạnh việc làm của họ vì lý do tham gia thành lập, gia nhập hoặc hoạt động công đoàn hợp pháp.
Thứ 2 là bảo vệ tổ chức của người lao động không bị can thiệp bởi người sử dụng lao động. Điều 2 Công ước số 98 quy định các tổ chức của người lao động và của người sử dụng lao động phải được hưởng sự bảo vệ thích đáng chống lại mọi hành vi can thiệp của bên kia hoặc của những đại diện hay thành viên của bên kia trong quá trình thành lập, hoạt động hoặc điều hành hoạt động của mình.
Thứ 3 là những biện pháp thúc đẩy thương lượng tập thể tự nguyện. Công ước số 98 xác lập nguyên tắc tự nguyện trong thương lượng tập thể, đồng thời quy định về trách nhiệm của nhà nước trong việc thúc đẩy thương lượng tập thể được thực hiện một cách tự nguyện.
Việc bảo đảm tính tự nguyện của thương lượng tập thể chủ yếu liên quan đến những nội dung về quyền tự định đoạt của các bên về nội dung thương lượng; về việc có đạt được thỏa ước thông qua thương lượng hay không; về thành phần tham gia thương lượng; về cấp độ thương lượng; về các nghĩa vụ của các bên trong quá trình thương lượng tập thể.v.v…
Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ và thúc đẩy thương lượng tập thể giữa các bên, song đó phải là những biện pháp thúc đẩy, hỗ trợ không mang tính hành chính, áp đặt nhằm bảo đảm tính tự nguyện của các bên.