Các nhà thiết kế Liên Xô là những người đầu tiên đạt được thành công trong lĩnh vực này. Sau đây là bài của Sputnik về các hệ thống radar dẫn đường phục vụ chiến đấu của Nga và phương Tây.
Phiên bản dân sự được quân đội sử dụng
NATO phân bổ khoảng một tỷ Euro cho việc hiện đại hóa các máy bay cảnh báo sớm AWACS. Các chiếc máy bay Boeing E3 Sentry AWACS (Hệ thống điều khiển & cảnh báo trên không) của Mỹ sẽ được nâng cấp để kéo dài thời hạn sử dụng đến năm 2035. Máy bay này được thiết kế trên cơ sở máy bay Boeing 707 để giúp cho các hệ thống phòng không mặt đất.
Hệ thống AWACS có khả năng phát hiện và theo dõi tất cả các loại mục tiêu trên không, bao gồm máy bay ném bom, máy bay chiến đấu bay thấp, máy bay đánh chặn tốc độ cao và tên lửa hành trình. Một chức năng quan trọng của máy bay loại này là xác định tọa độ mục tiêu và hướng dẫn máy bay chiến thuật tấn công vào mục tiêu này. Boeing E3 Sentry có thể đồng thời tương tác với vài chục máy bay chiến đấu đồng minh.
Bây giờ NATO có 14 đơn vị AWACS được triển khai tại căn cứ Geilenkirchen, phía tây Đức. Theo thông tin sơ bộ, các chuyên gia sẽ lắp đặt động cơ mạnh hơn và kinh tế hơn cho các máy bay này, sẽ cập nhật hệ thống điện tử, hệ thống điều khiển, hệ thống liên lạc và giám sát. Thay cho các hệ thống Analog bị lỗi thời, họ sẽ lắp đặt các hệ thống kỹ thuật số.
Công cụ làm việc chính của hệ thống AWACS là vòm anten radar đường kính 9m được gắn trên thân máy bay nhờ 2 thanh chống dài 4m. Anten khi hoạt động có tốc độ quay 6 vòng/phút. Radar hoạt động ở một số chế độ: với sự trợ giúp của nó, có thể không chỉ phát hiện và xác định các thông số bay của bất kỳ mục tiêu trên không, mà còn phát hiện các vật thể trên mặt biển.
Đĩa bay
Khi bay ở độ cao 9 km, mỗi máy bay AWACS có thể bao quát một khu vực rộng tới 300.000 km2, ba chiếc máy bay bao phủ toàn bộ Trung Âu. Phi hành đoàn gồm bốn người, nhưng, luôn có thêm khoảng 15 chuyên gia điều khiển các thiết bị radar. Nếu được tiếp nhiên liệu trên không, chiếc “đĩa bay” có thể bay trong vòng 18 giờ.
Không quân Hoa Kỳ đã nhận được chiếc máy bay AWACS đầu tiên vào năm 1979. Các hệ thống AWACS đã được sử dụng trong tất cả các cuộc xung đột vũ trang với sự tham gia của quân đội Mỹ. Ví dụ, chúng đã hoạt động hiệu quả trong chiến dịch quân sự ở Iraq vào năm 1991. Khi đó, trên bầu trời Iraq đã có 5 máy bay AWACS của Mỹ và một số máy bay của NATO và Ả Rập Saudi, chúng đã kiểm soát không phận và hải phận trong khu vực xung đột, chỉ huy hơn 250 máy bay chiến đấu, kiểm soát việc tiếp nhiên liệu trên không, hướng dẫn các máy bay ném bom chiến lược và đưa máy bay chiến thuật và máy bay từ tàu sân bay đến các khu vực tấn công.
Ngày nay, máy bay AWACS đang hoạt động ở Afghanistan, theo dõi tình hình ở phía đông nam Ukraina và ở Syria. Các máy bay này cất cánh để theo dõi các chuyến bay của máy bay tiêm kích và máy bay ném bom chiến lược của Nga.
Biên giới phía bắc
Ở Liên Xô và Nga, máy bay trinh sát trên không được biết đến với tên gọi loại máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm. Các nhà thiết kế đã tạo ra loại máy bay như vậy sớm hơn vài năm so với các đối tác Mỹ. Máy bay cảnh báo sớm Tu-126 đầu tiên của Liên Xô được thiết kế trên cơ sở máy bay dân dụng Tu-114 đã được trang bị cho quân đội vào năm 1965.
Trong thời gian Chiến tranh Lạnh, khi có nguy cơ Mỹ có thể tấn công từ hướng phía bắc, các chuyên gia đã thảo luận nghiêm túc nhu cầu về các phương tiện như vậy. Do các đặc điểm địa lý và chiều dài lớn, đoạn đường biên giới phía bắc của Liên Xô dễ bị tấn công bởi các máy bay ném bom chiến lược của đối thủ tiềm tàng. Vì không có khả năng xây dựng nhanh chóng các trạm radar mặt đất bao phủ một vùng lãnh thổ rộng lớn như vậy, các chuyên gia đã quyết định xây dựng hệ thống radar di động.
Các nhà thiết kế đã bắt đầu thực hiện dự án này vào năm 1955. Ở giai đoạn đầu, họ muốn lắp đặt các thiết bị radar tinh vi trên máy bay ném bom chiến lược Tu-95. Tuy nhiên, các loại thiết bị có kích thước rất lớn và chỉ đơn giản không vừa với thân máy bay hẹp. Ngoài ra, cần phải tìm chỗ cho hơn 20 người - các phi công và hai ca chuyên gia kỹ thuật. Về mặt này, máy bay dân dụng Tu-114 mới nhất là phương án tối ưu.
Máy bay được trang bị radar giám sát Liana có khả năng phát hiện các mục tiêu trên không ở khoảng cách từ100 km đến 350 km, cũng như các tàu nổi ở khoảng cách 400 km. Radar có thể truyền thông tin đến các sở chỉ huy ở khoảng cách tới 2.000 km. Nhưng sau đó, các nhà thiết kế đã gặp vấn đề - radar phải được gắn trên trụ quay với tốc độ 10 vòng/phút. Vì thế họ đã phải phát triển một ổ trục đặc biệt với đường kính hơn 1 mét. Sau đó, người Mỹ đã sao chép công nghệ này cho AWACS của họ.
Tiến hóa nhanh chóng
Tu-126 có khả năng vượt qua khoảng 10.000 km và bay suốt một ngày đêm nếu được tiếp nhiên liệu trên không. Tuy nhiên, dù có các thiết bị tiên tiến, điều kiện làm việc trên máy bay vẫn rất khó chịu đối với các phi công. Tu-126 không có trang trí nội thất - để giảm trọng lượng, các nhà thiết kế đã từ bỏ tất cả các vật liệu cách âm, cách nhiệt và giảm tiếng ồn. Phi hành đoàn buộc phải tiếp xúc với tiếng ồn lớn, làm việc trong cái lạnh và liên tục tiếp xúc với bức xạ từ thiết bị vô tuyến.
Tuy nhiên, Tu-126 là loại máy bay hiệu quả và đáng tin cậy. Máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm đã trở thành một phần không thể thiếu của Không quân. Ngày nay, quân đội Nga có đội máy bay được phát triển trên cơ sở máy bay vận tải IL-76. Phiên bản với chỉ số A-50U có khả năng chiến đấu và phạm vi bay lớn hơn. Trên máy bay có hơn 20 tấn thiết bị điện toán và radio hiện đại.
Máy bay A-50U có khả năng phát hiện mục tiêu ở khoảng cách đến 600 km và có thể theo dõi đồng thời tới 150 mục tiêu khác nhau.
Ngoài ra, Nga đang thử nghiệm máy bay A-100 Premier được phát triển có tính đến các lớp mục tiêu mới, bao gồm các máy bay chiến đấu tàng hình mới nhất. Bộ Quốc phòng Nga nhận định rằng, khả năng của A-100 vượt trội hơn đáng kể so với các lớp máy bay tương tự trong và ngoài nước, kể cả máy bay Boeing E-3 Sentry AWACS của Không quân Hoa Kỳ.