Việt Nam: Điều đáng chú ý trong danh sách 34 Bí thư tỉnh, Thành ủy
© Ảnh : TTXVN - Bùi Doãn TấnQuốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.

© Ảnh : TTXVN - Bùi Doãn Tấn
Đăng ký
Như Sputnik đưa tin, ngày 30/6/2025, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong tiến trình cải cách tổ chức bộ máy Nhà nước Việt Nam khi toàn quốc đồng loạt công bố địa giới hành chính mới cùng danh sách nhân sự chủ chốt tại cấp tỉnh, thành.
Trong danh sách 34 Bí thư tỉnh, thành ủy sau sáp nhập của Việt Nam, có 3 người từng là tướng lĩnh cấp cao Quân đội và Công an, phần lớn không phải người địa phương, trình độ học vấn ngày càng nâng cao, tỷ lệ cán bộ nữ và đại diện đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được chú trọng.
Danh sách 34 Bí thư Tỉnh uỷ, Thành uỷ
Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua Nghị quyết 202/2025, giảm số tỉnh, thành từ 63 xuống còn 34 (gồm 28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc trung ương), đánh dấu một cuộc “cách mạng hành chính” lịch sử được ghi nhận là sâu rộng nhất trong nhiều thập kỷ.
Danh sách Bí thư Tỉnh uỷ, Thành uỷ các tỉnh, thành phố như sau:
1.
Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh2.
Bùi Thị Minh Hoài, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội3.
Lê Tiến Châu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hải Phòng4.
Lê Quốc Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp5.
Nguyễn Đức Trung, Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An6.
Đỗ Thanh Bình, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Cần Thơ7.
Nguyễn Văn Quảng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng8.
Hầu A Lềnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang9.
Vũ Hồng Văn, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai10.
Nguyễn Văn Quyết, Bí thư Tỉnh ủy Tây Ninh11.
Trịnh Việt Hùng, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên12.
Nguyễn Đình Trung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk13.
Nguyễn Hồ Hải, Bí thư Tỉnh ủy Cà Mau14.
Nguyễn Hữu Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên15.
Nguyễn Văn Gấu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh16.
Bùi Thị Quỳnh Vân, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi17.
Nghiêm Xuân Thành, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa18.
Hồ Quốc Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai19.
Trương Quốc Huy, Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình20.
Trịnh Xuân Trường, Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai21.
Ngô Chí Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long22.
Đặng Xuân Phong, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ23.
Y Thanh Hà Niê K’đăm, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lâm Đồng24.
Lê Ngọc Quang, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị25.
Lê Trường Lưu, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Huế26.
Giàng Páo Mỷ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu27.
Trần Quốc Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Điện Biên28.
Nguyễn Doãn Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa29.
Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ninh30.
Nguyễn Tiến Hải, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy An Giang31.
Quản Minh Cường, Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng32.
Nguyễn Duy Lâm, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh33.
Hoàng Văn Nghiệm, Bí thư Tỉnh ủy Lạng Sơn34.
Hoàng Quốc Khánh, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La.Có gì đáng chú ý?
Danh sách 34 Bí thư Tỉnh ủy, Thành ủy mới đã thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận.
3 tướng lĩnh đảm nhiệm vị trí Bí thư tỉnh, thành uỷ:Một điểm đáng chú ý là trong số 34 bí thư tỉnh, thành lần này, có ba người từng là tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang. Đây là sự thể hiện rõ nét xu hướng bố trí cán bộ có nền tảng kỷ luật quân đội và kinh nghiệm quản lý cao cấp vào các địa phương trọng điểm.
Cụ thể, ông Nguyễn Doãn Anh, nguyên Thượng tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, hiện là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Ông sinh năm 1967 tại Hà Nội, có học vấn trong ngành Chỉ huy Tham mưu Binh chủng Hợp thành và từng là Đại biểu Quốc hội khóa XIV.
Tại Bắc Ninh, ông Nguyễn Văn Gấu, nguyên Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, được Bộ Chính trị phân công làm Bí thư Tỉnh ủy vào ngày 26/6/2024. Ông sinh năm 1967 tại Bến Tre, có bằng cử nhân khoa học xã hội và nhân văn.
Người thứ ba là Thiếu tướng Vũ Hồng Văn, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai, sinh năm 1976 tại Hưng Yên. Ông là tiến sĩ Luật, từng là Cục trưởng Cục An ninh chính trị nội bộ (Bộ Công an), ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII, và hiện là Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai.
Tỷ lệ bí thư không là người địa phương chiếm gần 80%: Một điểm nhấn trong cơ cấu nhân sự là có 27/34 bí thư không phải người địa phương (chiếm 79,4%), phản ánh rõ nét chủ trương xuyên suốt nhiều nhiệm kỳ của Đảng trong việc tránh tình trạng cục bộ địa phương, đồng thời tạo điều kiện cho cán bộ được rèn luyện và thử thách ở nhiều môi trường khác nhau. Số bí thư là người địa phương chỉ chiếm 20,6%, chủ yếu rơi vào các tỉnh có đặc thù văn hóa dân tộc thiểu số hoặc vùng sâu, vùng xa của Việt Nam.
Ba người dân tộc thiểu số trong danh sách tân Bí thư: Trong số 34 bí thư, có ba người là người dân tộc thiểu số (chiếm 8,82%). Cụ thể, bà Giàng Páo Mỷ (Bí thư tỉnh Lai Châu, dân tộc H’Mông), ông Hầu A Lềnh (Bí thư tỉnh Tuyên Quang, dân tộc H’Mông) và ông Y Thanh Hà Niê KĐăm (Bí thư tỉnh Lâm Đồng, dân tộc Ê Đê). Đây đều là những địa phương có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao.
Cơ cấu đội ngũ đang trẻ hóa: Nhìn vào danh sách vừa công bố, có thể thấy độ tuổi các bí thư dao động từ 47 đến 68 tuổi, với tuổi trung bình là 53. Trong đó, các lãnh đạo thế hệ 7X (1970-1979) chiếm tỷ lệ 58,82%, Bí thư trẻ nhất là ông Lê Quốc Phong, Bí thư tỉnh Đồng Tháp (sinh năm 1978 - 47 tuổi). Người lớn tuổi nhất là ông Nguyễn Văn Nên, Bí thư Thành ủy TP.HCM, sinh năm 1957 (68 tuổi).
Tỷ lệ nữ: Trong danh sách 34 bí thư, có 3 người là nữ (8,82%) gồm bà Bùi Thị Minh Hoài (Bí thư Thành ủy Hà Nội, sinh năm 1965), bà Giàng Páo Mỷ (Bí thư tỉnh Lai Châu, sinh năm 1963), và bà Bùi Thị Quỳnh Vân (Bí thư tỉnh Quảng Ngãi, sinh năm 1974). Số lãnh đạo nữ của Việt Nam hiện vẫn còn khiêm tốn nhưng đã phản ánh xu hướng từng bước tăng tỷ lệ cán bộ nữ ở bộ máy chính quyền cấp cao.
Về trình độ học vấn, đáng chú ý, đội ngũ bí thư thể hiện sự đồng đều và chuyên sâu, trong đó có 32,35% là tiến sĩ, 41,18% là thạc sĩ, và 23,53% là cử nhân với các ngành được đào tạo nhiều nhất là kinh tế (41%), luật (26%), tiếp theo là các lĩnh vực chính trị, quản lý công, quốc phòng, an ninh, báo chí.