Việt Nam đứng giữa ngã ba đường
17:08 30.06.2025 (Đã cập nhật: 17:34 30.06.2025)
© SputnikTăng trưởng kinh tế Việt Nam

© Sputnik
Đăng ký
Bà Vanessa Kristina Steinmetz, Giám đốc quốc gia của Viện Friedrich Naumann for Freedom tại Việt Nam cho rằng Việt Nam đứng giữa ngã ba đường vì không chỉ hướng đến mục tiêu duy trì tăng trưởng kinh tế mà còn hướng đến tăng trưởng mạnh mẽ ở mức hai chữ số.
Tuy nhiên, theo chuyên gia, mục tiêu đó cho thấy động lực lớn để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, thịnh vượng hơn cho tất cả người dân.
Đứng giữa ngã ba đường
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội vừa phối hợp cùng Viện Friedrich Naumann Foundation (FNF) Việt Nam tổ chức Hội thảo công bố Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2025 với chủ đề: “Định vị vai trò của chính sách công nghiệp thúc đẩy khu vực tư nhân hướng tới tăng trưởng hai con số”.
Phát biểu tại đây, bà Vanessa Kristina Steinmetz, Giám đốc quốc gia của Viện Friedrich Naumann for Freedom tại Việt Nam, nhận định rằng trong bối cảnh thị trường toàn cầu đang trải qua những biến động và bất ổn chưa từng có, Việt Nam đang đứng trước ngã ba đường.
Theo bà, điều này là bởi Việt Nam không chỉ hướng đến mục tiêu duy trì đà tăng trưởng kinh tế, mà còn đặt tham vọng đạt mức tăng trưởng hai con số – một động lực mạnh mẽ để thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và kiến tạo một tương lai thịnh vượng, bền vững hơn cho toàn thể người dân.
Bà Steinmetz nhấn mạnh, trọng tâm của quá trình chuyển đổi này nằm ở một nguyên tắc nền tảng của tự do kinh tế: khu vực tư nhân cần được nhìn nhận là lực lượng năng động và sáng tạo nhất trong việc thúc đẩy tăng trưởng bền vững.
Vị chuyên gia nhắc lại, hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đã đóng góp hơn 50% GDP và trở thành trụ cột trong việc tạo ra việc làm và thúc đẩy đổi mới. Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai chữ số, không chỉ dừng lại ở việc thừa nhận vai trò của khu vực tư nhân, mà còn cần thiết phải kiến tạo một khuôn khổ thể chế thuận lợi – nơi các lực lượng thị trường có thể phát huy tối đa tiềm năng, đồng thời các thất bại thị trường được xử lý một cách linh hoạt và hiệu quả.
“Điều này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng các thể chế thông minh, đơn giản hóa các quy định, bảo đảm sự công bằng và tạo điều kiện tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn, công nghệ cũng như kỹ năng cho doanh nghiệp”, bà Steinmetz khẳng định.
Theo PGS.TS Nguyễn Trúc Lê, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế nêu bật chính sách công nghiệp hiện đại cần có tính kiến tạo, đổi mới và hướng tới phát triển bền vững. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò trụ cột của nền kinh tế, chiếm hơn 24% GDP và đóng góp trên 80% kim ngạch xuất khẩu.
Để nâng cao hiệu quả, báo cáo khuyến nghị cần tăng cường liên kết công – tư, đầu tư vào các phân khúc có giá trị gia tăng cao và thúc đẩy quá trình nội địa hóa sản xuất. Báo cáo chỉ rõ, Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn tới – một cột mốc mang tính bước ngoặt nhằm thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và thực hiện các mục tiêu phát triển quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Trong lộ trình này, việc định vị đúng vai trò của chính sách công nghiệp để hỗ trợ khu vực tư nhân được coi là yếu tố then chốt.
“Hiện khu vực tư nhân tại Việt Nam có hơn 940.000 doanh nghiệp và trên 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và tạo việc làm cho khoảng 82% lực lượng lao động. Nhiều doanh nghiệp trong nước đã vươn tầm khu vực và toàn cầu, tạo dựng thương hiệu và giá trị gia tăng đáng kể”, báo cáo điểm lại.
Tuy vậy, cũng cần nhìn nhận rằng, mô hình tăng trưởng hiện tại của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào FDI và xuất khẩu thô. TFP – năng suất nhân tố tổng hợp ở mức thấp và nhiều năm thậm chí âm. Chuyên gia chỉ ra các vấn đề như đầu tư công nghiệp còn thiếu trọng tâm ngành – vùng; các chính sách hỗ trợ chưa tạo được cú huých cho doanh nghiệp nội địa bước vào chuỗi giá trị toàn cầu; hạn chế trong nghiên cứu phát triển (R&D), thiếu hạ tầng số, thiếu kết nối giữa khu vực công và tư; chính sách cần phải đồng bộ hóa hơn nữa và có một cơ chế giám sát thường xuyên, hiệu quả trong công tác thực thi chính sách.
Học theo các nền kinh tế Đông Á
Dẫn nghiên cứu từ các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, bà Nguyễn Thị Xuân Thúy, Giảng viên Khoa Kinh tế Chính trị, Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, đồng thời là tác giả chính của báo cáo, cho biết các nước này đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhờ tăng đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế so sánh và nâng cao năng suất tổng hợp (TFP).
Trong mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư từ phía cầu, ba quốc gia trên từng nâng tỷ trọng đầu tư lên mức gần 40–50% GDP, trong khi Việt Nam mới chỉ đạt 28,5% vào năm 2023. Dù xuất khẩu tăng nhanh, nhưng chủ yếu vẫn đến từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), khiến giá trị gia tăng nội địa còn hạn chế.
Các nước Đông Á, khi mới phát triển, cũng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn và thị trường tiêu dùng trong nước nhỏ, buộc phải tận dụng vốn và thị trường nước ngoài để thúc đẩy sản xuất. Tuy nhiên, họ đã nhanh chóng xác lập lợi thế so sánh, xây dựng chính sách công nghiệp hiệu quả để tạo dựng năng lực cạnh tranh quốc gia.
Từ những kinh nghiệm trên, vị chuyên gia đề xuất Việt Nam cần khẩn trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng bằng cách xây dựng chính sách công nghiệp hiệu quả, tập trung vào các ngành chế biến, chế tạo có lợi thế cạnh tranh, cải thiện thể chế, hỗ trợ khu vực tư nhân và tạo đồng thuận trong toàn nền kinh tế.
“Không một nền kinh tế nào thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình mà không có chính sách công nghiệp chủ động, chọn lọc và có định hướng dài hạn”, PGS.TS Nguyễn Trúc Lê lưu ý.
Lạc quan về Việt Nam
Hội thảo cũng nhìn nhận, trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt nhiều bước tiến trong cải thiện chỉ số cạnh tranh công nghiệp (CIP), vượt qua Philippines và Indonesia, vươn lên vị trí thứ tư trong ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Thành tựu này chủ yếu nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của xuất khẩu công nghiệp chế biến, chế tạo – đặc biệt trong các ngành điện tử, điện máy và da giày. Tuy vậy, những thành công này vẫn còn thiếu tính bền vững khi năng suất lao động trong nước tăng chậm hơn chi phí lao động và phần lớn vẫn phụ thuộc vào các nguồn lực bên ngoài như vốn FDI, công nghệ nhập khẩu và nguyên liệu đầu vào. Nguồn cung năng lượng vẫn dựa nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, tiềm ẩn rủi ro lớn về môi trường và an ninh năng lượng.
Trong khi đó, nhiều quốc gia phát triển như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc đang tích cực sử dụng chính sách công nghiệp như một công cụ chủ động để xây dựng năng lực sản xuất, đổi mới công nghệ và hướng tới phát triển bền vững.
Báo cáo khuyến nghị chính sách công nghiệp trong thời gian tới cần tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong nước, nhất là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs). Cần đảm bảo nguồn lực về đất đai, tín dụng, lao động và công nghệ, đồng thời xác định và phát huy lợi thế so sánh trong từng ngành nghề cụ thể.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh kết nối các cụm ngành, tạo chuỗi giá trị nội địa, thúc đẩy liên kết vùng – miền để lan tỏa hiệu quả sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh của toàn nền kinh tế.
Theo báo cáo mới công bố của Ngân hàng UOB Việt Nam, dù môi trường kinh doanh còn nhiều biến động, có tới 60% doanh nghiệp Việt Nam vẫn lạc quan về triển vọng trong năm tới, trong đó 46% dự kiến sẽ mở rộng hoạt động.
Ông Lim Dyi Chang, Giám đốc Khối Khách hàng Doanh nghiệp Ngân hàng UOB Việt Nam cho biết: “Chúng tôi vẫn lạc quan về triển vọng kinh tế của Việt Nam, bất chấp những bất ổn gần đây liên quan đến thuế quan”.
Với các yếu tố nền tảng vững chắc, những cải cách chính sách tích cực gần đây cùng sự chủ động của cộng đồng doanh nghiệp là những tín hiệu rất đáng khích lệ. Đây cũng là thời điểm thích hợp để các doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh chiến lược theo hướng giảm phụ thuộc quá mức vào từng thị trường xuất khẩu riêng lẻ, đồng thời khai thác sức mạnh ngày càng tăng của thương mại nội khối ASEAN.