https://kevesko.vn/20251019/viet-nam-khong-the-trong-cho-vao-may-rui-39026616.html
Việt Nam không thể trông chờ vào may rủi
Việt Nam không thể trông chờ vào may rủi
Sputnik Việt Nam
Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong gần hai tháng qua, sau khi hai thị trường chủ lực là Philippines và Indonesia đồng loạt... 19.10.2025, Sputnik Việt Nam
2025-10-19T21:07+0700
2025-10-19T21:07+0700
2025-10-19T21:07+0700
việt nam
chính trị
thế giới
philippines
indonesia
kinh tế
doanh nghiệp
gạo
xuất khẩu
nhật bản
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e6/05/1a/15367276_0:161:3071:1888_1920x0_80_0_0_f344730cd9680ef7c9817a5157d81d0a.jpg
Diễn biến này khiến nhiều doanh nghiệp trong nước phải cơ cấu lại hoạt động, mở rộng sang các thị trường xa hơn như châu Phi hoặc tập trung vào phân khúc gạo cao cấp để duy trì tăng trưởng xuất khẩu, không thể chỉ trông chờ vào may rủi.Động thái của Philippines và Indonesia khiến nhà xuất khẩu Việt Nam đổi hướngTheo TTXVN dẫn thông tin từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong tuần qua, giá gạo thơm 5% tấm của Việt Nam giảm về còn 420–435 USD/tấn, mức thấp nhất trong gần hai tháng.Một thương nhân tại TP Hồ Chí Minh cho biết, nhu cầu trên thị trường suy yếu rõ rệt kể từ khi Philippines quyết định gia hạn lệnh tạm ngừng nhập khẩu gạo. Mặc dù Chính phủ đã khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường dự trữ và tìm kiếm thị trường mới, nhưng các biện pháp này vẫn chưa đủ để vực dậy giá.Theo VFA, tình hình trở nên khó khăn hơn khi Philippines và Indonesia – hai thị trường xuất khẩu gạo chủ lực của Việt Nam – đồng loạt siết nhập khẩu, khiến nhiều hợp đồng bị hoãn hoặc hủy.Trước bối cảnh này, nhiều doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc chiến lược, mở rộng sang những thị trường xa hơn nhưng ổn định hơn, trong đó châu Phi đang trở thành điểm đến tiềm năng nhờ nhu cầu lớn và ít rủi ro chính sách.Song song đó, các doanh nghiệp cũng đẩy mạnh đầu tư vào phân khúc gạo cao cấp như gạo thơm, gạo đặc sản, gạo hữu cơ. Các giống gạo ST24, ST25, OM18, Jasmine đang được xúc tiến mạnh mẽ sang Nhật Bản, EU và Hàn Quốc – những thị trường có tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe nhưng mang lại giá trị gia tăng cao và ổn định. Nhiều doanh nghiệp cũng chú trọng hơn đến việc xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc, hướng tới sản xuất xanh và phát thải thấp, phù hợp với xu hướng tiêu dùng bền vững toàn cầu.Không thể trông chờ may rủiTheo Cục Hải quan (Bộ Tài chính), trong tháng 9, lượng gạo xuất sang Philippines giảm tới hơn 93% về khối lượng và hơn 92% về giá trị so với tháng 8. Indonesia, thị trường lớn thứ hai, cũng áp dụng chính sách siết chặt hạn ngạch nhập khẩu, khiến nhiều hợp đồng bị trì hoãn hoặc hủy bỏ.Tổng lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam trong tháng 9 chỉ đạt hơn 466.000 tấn, trị giá 232,38 triệu USD, giảm gần 47% so với tháng trước.Đáng chú ý, hiện khoảng nửa triệu tấn gạo của các doanh nghiệp Việt Nam đang bị “kẹt” chưa thể giao. Trước tình hình này, VFA khuyến cáo doanh nghiệp giữ bình tĩnh, không nên hạ giá ồ ạt, đồng thời tích cực tìm thị trường thay thế.Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, cho biết hiện "chưa có văn bản chính thức kéo dài lệnh cấm từ phía Philippines nhưng đây là lời cảnh báo rõ ràng: doanh nghiệp Việt không thể tiếp tục phụ thuộc vào một vài thị trường lớn".Ông Nam cũng mong Bộ Tài chính có thể xem xét nới tín dụng cho các đơn vị đang ‘ôm hàng chờ giá’, mở rộng xúc tiến thương mại qua kênh ngoại giao, đặc biệt là tại châu Phi và Trung Đông, đồng thời đề nghị cơ quan chức năng làm việc với Philippines để cho phép thông quan các lô hàng đã đặt cọc trước lệnh cấm.Trên thị trường trong nước, giao dịch lúa trong tuần qua nhìn chung chững lại do sức mua yếu. Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, giá lúa tươi các loại Jasmine, OM18, IR50404 dao động từ 5.000 – 9.400 đồng/kg tùy loại và địa phương.Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tại Cần Thơ, lúa Jasmine giữ mức 8.400 đồng/kg, OM18 6.800 đồng/kg, IR5451 6.200 đồng/kg, ST25 9.400 đồng/kg.Tại Đồng Tháp, OM18 có giá 6.900 đồng/kg, Jasmine 7.000 đồng/kg, IR50404 6.200 đồng/kg, giảm 300 đồng/kg so với tuần trước.Ở Vĩnh Long, OM5451 đạt 7.800 đồng/kg, OM4900 8.100 đồng/kg, IR50404 6.600 đồng/kg.Tại An Giang, giá các loại lúa tươi chủ yếu đi ngang, như IR50404 5.000–5.200 đồng/kg, OM5451 5.400–5.600 đồng/kg, OM18 5.800–6.000 đồng/kg, Đài Thơm 8 tương đương, OM380 5.700–5.900 đồng/kg.Giá gạo bán lẻ tại An Giang không biến động: gạo thường 13.000–15.000 đồng/kg, gạo thơm Thái 20.000–22.000 đồng/kg, Jasmine 16.000–18.000 đồng/kg, gạo trắng 16.000 đồng/kg, Nàng Hoa 21.000 đồng/kg, Hương Lài 22.000 đồng/kg, thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg, Sóc thường 17.000 đồng/kg, Sóc Thái 20.000 đồng/kg, gạo Nhật 22.000 đồng/kg.Giá gạo nguyên liệu IR504 ở mức 7.900–8.000 đồng/kg, giảm 100–150 đồng/kg; gạo thành phẩm IR504 vẫn dao động 9.500–9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM380 7.800–7.900 đồng/kg, gạo thành phẩm OM380 8.800–9.000 đồng/kg. Giá phụ phẩm dao động 7.250–10.000 đồng/kg, trong đó cám khô ở mức 9.000–10.000 đồng/kg.Trên thị trường quốc tế, các nhà xuất khẩu gạo hàng đầu châu Á cũng gặp khó khăn trong bối cảnh nhu cầu suy yếu. Giá gạo Thái Lan đã giảm tuần thứ năm liên tiếp, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 10/2007, với gạo 5% tấm được chào bán 335–340 USD/tấn, giảm so với 340 USD/tấn của tuần trước. Tại Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm giữ ở 340–345 USD/tấn, còn gạo trắng 5% tấm ở mức 360–370 USD/tấn, gần mức thấp nhất kể từ giữa năm 2016.Trong khi đó, thị trường ngũ cốc Mỹ ghi nhận tuần tăng giá đầu tiên trong một tháng qua, với hợp đồng ngô giao tháng 12/2025 tăng 2,3% lên 4,22 USD/bushel, đậu tương tháng 11/2025 tăng 1,3% lên 10,19 USD/bushel, lúa mì tháng 12/2025 tăng 1,1% lên 5,03 USD/bushel.Giá cà phê thế giới biến động trái chiều: trên sàn ICE London, Robusta tháng 11/2025 giảm 62 USD/tấn còn 4.552 USD/tấn, trong khi trên sàn New York, Arabica tháng 12/2025 tăng 3,65 xu/lb lên 397,45 xu/lb. Tại Việt Nam, giá cà phê ngày 18/10 tại Tây Nguyên giảm 1.000 đồng/kg, xuống trung bình 114.300 đồng/kg.
https://kevesko.vn/20251002/viet-nam-nhap-gao-nhieu-thu-hai-the-gioi-38711840.html
https://kevesko.vn/20250910/bo-cong-thuong-hop-khan-philippines-ngo-loi-nhung-viet-nam-chua-dam-ban-38249965.html
https://kevesko.vn/20250913/song-gio-thi-truong-cung-khong-the-quat-nga-gia-tri-cay-lua-viet-nam-38301084.html
philippines
indonesia
nhật bản
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
2025
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
tin thời sự
vn_VN
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e6/05/1a/15367276_170:0:2901:2048_1920x0_80_0_0_ce16fe1d27f133a4a098a92ac9d80281.jpgSputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
việt nam, chính trị, thế giới, philippines, indonesia, kinh tế, doanh nghiệp, gạo, xuất khẩu, nhật bản, eu
việt nam, chính trị, thế giới, philippines, indonesia, kinh tế, doanh nghiệp, gạo, xuất khẩu, nhật bản, eu
Diễn biến này khiến nhiều doanh nghiệp trong nước phải cơ cấu lại hoạt động, mở rộng sang các thị trường xa hơn như châu Phi hoặc tập trung vào phân khúc gạo cao cấp để duy trì tăng trưởng xuất khẩu, không thể chỉ trông chờ vào may rủi.
Động thái của Philippines và Indonesia khiến nhà xuất khẩu Việt Nam đổi hướng
Theo TTXVN dẫn thông tin từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), trong tuần qua, giá gạo thơm 5% tấm của Việt Nam giảm về còn 420–435 USD/tấn, mức thấp nhất trong gần hai tháng.
Một thương nhân tại TP Hồ Chí Minh cho biết, nhu cầu trên thị trường suy yếu rõ rệt kể từ khi Philippines quyết định gia hạn lệnh tạm ngừng nhập khẩu gạo. Mặc dù Chính phủ đã khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường dự trữ và tìm kiếm thị trường mới, nhưng các biện pháp này vẫn chưa đủ để vực dậy giá.
Theo VFA, tình hình trở nên khó khăn hơn khi
Philippines và Indonesia – hai thị trường xuất khẩu gạo chủ lực của Việt Nam – đồng loạt siết nhập khẩu, khiến nhiều hợp đồng bị hoãn hoặc hủy.
Trước bối cảnh này, nhiều doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc chiến lược, mở rộng sang những thị trường xa hơn nhưng ổn định hơn, trong đó châu Phi đang trở thành điểm đến tiềm năng nhờ nhu cầu lớn và ít rủi ro chính sách.
Song song đó, các doanh nghiệp cũng đẩy mạnh đầu tư vào phân khúc gạo cao cấp như gạo thơm, gạo đặc sản, gạo hữu cơ. Các giống gạo ST24, ST25, OM18, Jasmine đang được xúc tiến mạnh mẽ sang Nhật Bản, EU và Hàn Quốc – những thị trường có tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe nhưng mang lại giá trị gia tăng cao và ổn định. Nhiều doanh nghiệp cũng chú trọng hơn đến việc xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc, hướng tới sản xuất xanh và phát thải thấp, phù hợp với xu hướng tiêu dùng bền vững toàn cầu.
Không thể trông chờ may rủi
Theo Cục Hải quan (Bộ Tài chính), trong tháng 9, lượng gạo xuất sang Philippines giảm tới hơn 93% về khối lượng và hơn 92% về giá trị so với tháng 8. Indonesia, thị trường lớn thứ hai, cũng áp dụng chính sách siết chặt hạn ngạch nhập khẩu, khiến nhiều hợp đồng bị trì hoãn hoặc hủy bỏ.
Tổng lượng gạo xuất khẩu của
Việt Nam trong tháng 9 chỉ đạt hơn 466.000 tấn, trị giá 232,38 triệu USD, giảm gần 47% so với tháng trước.
Đáng chú ý, hiện khoảng nửa triệu tấn gạo của các doanh nghiệp Việt Nam đang bị “kẹt” chưa thể giao. Trước tình hình này, VFA khuyến cáo doanh nghiệp giữ bình tĩnh, không nên hạ giá ồ ạt, đồng thời tích cực tìm thị trường thay thế.
Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, cho biết hiện "chưa có văn bản chính thức kéo dài lệnh cấm từ phía Philippines nhưng đây là lời cảnh báo rõ ràng: doanh nghiệp Việt không thể tiếp tục phụ thuộc vào một vài thị trường lớn".
Ông Nam cũng mong Bộ Tài chính có thể xem xét nới tín dụng cho các đơn vị đang ‘ôm hàng chờ giá’, mở rộng xúc tiến thương mại qua kênh ngoại giao, đặc biệt là tại châu Phi và Trung Đông, đồng thời đề nghị cơ quan chức năng làm việc với Philippines để cho phép thông quan các lô hàng đã đặt cọc trước lệnh cấm.
“Khó khăn lần này là phép thử thực sự cho ngành gạo Việt. Chúng ta không thể cứ trông chờ vào may rủi chính sách của nước khác. Đây là lúc phải chủ động xây dựng sức mạnh từ bên trong – từ chất lượng hạt gạo, chuỗi sản xuất, đến thương hiệu quốc gia”, Báo Tiền Phong dẫn lời ông Nam.
Trên thị trường trong nước, giao dịch lúa trong tuần qua nhìn chung chững lại do sức mua yếu. Tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long như Cần Thơ, Đồng Tháp, An Giang, Vĩnh Long, giá lúa tươi các loại Jasmine, OM18, IR50404 dao động từ 5.000 – 9.400 đồng/kg tùy loại và địa phương.
Theo Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường, tại Cần Thơ, lúa Jasmine giữ mức 8.400 đồng/kg, OM18 6.800 đồng/kg, IR5451 6.200 đồng/kg, ST25 9.400 đồng/kg.
Tại Đồng Tháp, OM18 có giá 6.900 đồng/kg, Jasmine 7.000 đồng/kg, IR50404 6.200 đồng/kg, giảm 300 đồng/kg so với tuần trước.
Ở Vĩnh Long, OM5451 đạt 7.800 đồng/kg, OM4900 8.100 đồng/kg, IR50404 6.600 đồng/kg.
Tại An Giang, giá các loại lúa tươi chủ yếu đi ngang, như IR50404 5.000–5.200 đồng/kg, OM5451 5.400–5.600 đồng/kg, OM18 5.800–6.000 đồng/kg, Đài Thơm 8 tương đương, OM380 5.700–5.900 đồng/kg.
Giá gạo bán lẻ tại An Giang không biến động: gạo thường 13.000–15.000 đồng/kg, gạo thơm Thái 20.000–22.000 đồng/kg, Jasmine 16.000–18.000 đồng/kg, gạo trắng 16.000 đồng/kg, Nàng Hoa 21.000 đồng/kg, Hương Lài 22.000 đồng/kg, thơm Đài Loan 20.000 đồng/kg, Sóc thường 17.000 đồng/kg, Sóc Thái 20.000 đồng/kg, gạo Nhật 22.000 đồng/kg.
Giá gạo nguyên liệu IR504 ở mức 7.900–8.000 đồng/kg, giảm 100–150 đồng/kg; gạo thành phẩm IR504 vẫn dao động 9.500–9.700 đồng/kg; gạo nguyên liệu OM380 7.800–7.900 đồng/kg, gạo thành phẩm OM380 8.800–9.000 đồng/kg. Giá phụ phẩm dao động 7.250–10.000 đồng/kg, trong đó cám khô ở mức 9.000–10.000 đồng/kg.
Trên thị trường quốc tế, các nhà xuất khẩu gạo hàng đầu châu Á cũng gặp khó khăn trong bối cảnh nhu cầu suy yếu. Giá gạo Thái Lan đã giảm tuần thứ năm liên tiếp, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 10/2007, với gạo 5% tấm được chào bán 335–340 USD/tấn, giảm so với 340 USD/tấn của tuần trước. Tại Ấn Độ, giá gạo đồ 5% tấm giữ ở 340–345 USD/tấn, còn gạo trắng 5% tấm ở mức 360–370 USD/tấn, gần mức thấp nhất kể từ giữa năm 2016.
Trong khi đó, thị trường ngũ cốc Mỹ ghi nhận tuần tăng giá đầu tiên trong một tháng qua, với hợp đồng ngô giao tháng 12/2025 tăng 2,3% lên 4,22 USD/bushel, đậu tương tháng 11/2025 tăng 1,3% lên 10,19 USD/bushel, lúa mì tháng 12/2025 tăng 1,1% lên 5,03 USD/bushel.
Giá cà phê thế giới biến động trái chiều: trên sàn ICE London, Robusta tháng 11/2025 giảm 62 USD/tấn còn 4.552 USD/tấn, trong khi trên sàn New York, Arabica tháng 12/2025 tăng 3,65 xu/lb lên 397,45 xu/lb. Tại Việt Nam, giá cà phê ngày 18/10 tại Tây Nguyên giảm 1.000 đồng/kg, xuống trung bình 114.300 đồng/kg.