https://kevesko.vn/20251117/viet-nam-tang-mua-khi-dot-39572762.html
Việt Nam tăng mua khí đốt
Việt Nam tăng mua khí đốt
Sputnik Việt Nam
Dữ liệu từ cơ quan Hải quan của Việt Nam cho thấy, riêng tháng 10/2025, Việt Nam nhập khẩu 374.753 tấn khí đốt hóa lỏng, tương ứng gần 208,4 triệu USD. 17.11.2025, Sputnik Việt Nam
2025-11-17T15:00+0700
2025-11-17T15:00+0700
2025-11-17T15:31+0700
việt nam
kinh tế
khí đốt
thông tin
evn
nhập khẩu
giá khí đốt
bộ công thương
bộ chính trị vn
năng lượng
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e6/09/09/17706777_0:139:3151:1911_1920x0_80_0_0_7475fe1b976f631da7af1d6852919ce8.jpg
So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 38,97%. Trong 10 tháng của năm 2025, cả nước nhập khẩu trên 2,79 triệu tấn khí đốt hóa lỏng, trị giá trên 1,7 tỷ USD. Việt Nam hiện nhập khẩu khí đốt hóa lỏng chủ yếu từ 3 thị trường chính là Malaysia, Qatar và Trung Quốc.Việt Nam tăng nhập khí đốtTrong 10 tháng năm 2025, cả nước nhập khẩu hơn 2,79 triệu tấn khí đốt hóa lỏng, trị giá trên 1,7 tỷ USD. So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 5,09%, nhưng trị giá lại giảm 1,28%.Theo thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, riêng tháng 10/2025, Việt Nam nhập khẩu 374.753 tấn khí đốt hóa lỏng, tương ứng gần 208,4 triệu USD. So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 38,97%, trong khi trị giá tăng 13,15%.Tính chung 10 tháng, lượng nhập khẩu khí đốt hóa lỏng vượt 2,79 triệu tấn, trị giá hơn 1,7 tỷ USD, ghi nhận mức tăng 5,09% về lượng nhưng giảm 1,28% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.Giá nhập khẩu khí đốt hóa lỏng bình quân 10 tháng đạt 609,54 USD/tấn, giảm 6,06% so với cùng kỳ. Giá giảm khiến trị giá nhập khẩu giảm nhẹ dù sản lượng tăng.Số liệu thống kê cho thấy Việt Nam nhập khẩu khí đốt hóa lỏng chủ yếu từ 3 thị trường: Malaysia, Qatar và Trung Quốc.Trong đó, Malaysia tiếp tục là thị trường lớn nhất, với 503.516 tấn nhập khẩu trong 10 tháng, trị giá gần 328,83 triệu USD. So với cùng kỳ, lượng tăng 69,39% và trị giá tăng 65,56%. Malaysia chiếm 18,04% tổng lượng và 19,33% tổng trị giá nhập khẩu khí đốt hóa lỏng của Việt Nam.Đáng chú ý, Trung Quốc đã vượt Qatar để trở thành thị trường lớn thứ hai. Trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 249.440 tấn khí đốt hóa lỏng từ thị trường này, trị giá gần 165,99 triệu USD. So với cùng kỳ, lượng giảm 1,41% và trị giá giảm 8,73%, chiếm 8,94% tổng lượng và 9,76% tổng trị giá.Năm 2024, Việt Nam nhập khẩu hơn 3,1 triệu tấn khí đốt hóa lỏng, trị giá 2,04 tỷ USD, tăng 24% về lượng và 31,5% về trị giá so với năm 2023.Khí đốt hóa lỏng được sử dụng chủ yếu để chiết nạp vào bình phục vụ nhu cầu dân sinh như nấu nướng, sưởi ấm, phục vụ công nghiệp, phương tiện giao thông, làm chất làm lạnh...Hiện nguồn cung trong nước mới đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu tiêu thụ, nên giá bán lẻ trong nước chịu tác động lớn từ giá gas thế giới. Trong bối cảnh nhu cầu tiếp tục tăng nhưng nguồn cung tại chỗ chưa theo kịp, nhập khẩu vẫn là giải pháp bù đắp thiếu hụt trong các năm tới.Đề xuất dự án điện khí LNG được mua bao tiêu 75% trong 15 nămTrong một diễn biến liên quan, Chính phủ mới đây đã đề xuất các dự án điện khí LNG nhập khẩu được tăng tỷ lệ bao tiêu lên tối thiểu 75% sản lượng hàng năm, với thời hạn tối đa 15 năm.Tại tờ trình gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Nghị quyết liên quan tháo gỡ và phát triển năng lượng tái tạo quốc gia giai đoạn 2026-2030.Theo tờ trình, Chính phủ kiến nghị các dự án nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu tiếp tục được bao tiêu sản phẩm, tức là cam kết sản lượng huy động điện. Tỷ lệ bao tiêu do bên bán (nhà máy điện khí LNG) và bên mua (EVN) thỏa thuận, nhưng không thấp hơn 75% sản lượng điện phát bình quân của dự án trong nhiều năm. Cơ chế này áp dụng trong thời gian trả nợ gốc và lãi vay, tối đa 15 năm từ ngày phát điện.Như vậy, tỷ lệ điện được cam kết bao tiêu với các dự án điện khí LNG tăng thêm 10%, và thời hạn bao tiêu kéo dài thêm 5 năm so với quy định tại Nghị định 100.Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đến năm 2030, tổng nguồn điện khí phải đầu tư mới tối đa gần 37.500 MW, trong đó 60% là khí hóa lỏng LNG (22.524 MW). Con số này tăng khoảng 7.000 MW so với trước khi điều chỉnh. Chính phủ đánh giá điện khí LNG nhập khẩu là nguồn điện nền quan trọng, giúp bảo đảm cung cấp điện ổn định, hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo và đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội.Trong quá trình triển khai, cơ quan điều hành ghi nhận nhiều kiến nghị từ các chủ đầu tư về việc nâng tỷ lệ bao tiêu lên cao hơn mức 65% hiện hành và kéo dài thời hạn hợp đồng lên 20-25 năm thay vì chỉ 10 năm như hiện nay.Trước các đề xuất này, Bộ Công Thương nhận định cần thiết rà soát và trình Quốc hội ban hành cơ chế đặc thù mang tính đột phá hơn về sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn để hỗ trợ các dự án. Tuy nhiên, mọi đề xuất phải được xem xét trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp định hướng của Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị về phát triển năng lượng.Thực tế cho thấy tỷ lệ cam kết bao tiêu nhằm bảo đảm dòng tiền ổn định để chủ đầu tư trả nợ vay. Các doanh nghiệp cung ứng và vận chuyển khí cũng yêu cầu tỷ lệ này để tính toán lượng và giá khí dài hạn. Trong báo cáo năm 2024, EVN cho biết các chủ đầu tư dự án năng lượng khí LNG đề nghị tỷ lệ bao tiêu vào khoảng 72-90% trong toàn bộ thời hạn hợp đồng.Tuy vậy, tỷ lệ bao tiêu cao có thể làm tăng rủi ro tăng giá điện, bởi chi phí sản xuất mỗi kWh điện khí LNG thường cao hơn nhiều loại hình điện khác do phải sử dụng nhiên liệu nhập khẩu.
https://kevesko.vn/20250202/gia-xang-dau-viet-nam-dong-loat-giam-34303138.html
https://kevesko.vn/20250914/chuyen-gia-dan-lap-dien-mat-troi-sao-evn-lai-muon-phat-38317202.html
https://kevesko.vn/20250303/pv-gas-cung-cap-khi-lng-25-nam-cho-du-an-nhiet-dien-ty-do-cua-viet-nam-34783173.html
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
2025
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
tin thời sự
vn_VN
Sputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
https://cdn.img.kevesko.vn/img/07e6/09/09/17706777_209:0:2940:2048_1920x0_80_0_0_c2daab6d8927e2f35309badf931e7ba7.jpgSputnik Việt Nam
moderator.vn@sputniknews.com
+74956456601
MIA „Rossiya Segodnya“
việt nam, kinh tế, khí đốt, thông tin, evn, nhập khẩu, giá khí đốt, bộ công thương, bộ chính trị vn, năng lượng
việt nam, kinh tế, khí đốt, thông tin, evn, nhập khẩu, giá khí đốt, bộ công thương, bộ chính trị vn, năng lượng
So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 38,97%. Trong 10 tháng của năm 2025, cả nước nhập khẩu trên 2,79 triệu tấn khí đốt hóa lỏng, trị giá trên 1,7 tỷ USD. Việt Nam hiện nhập khẩu khí đốt hóa lỏng chủ yếu từ 3 thị trường chính là Malaysia, Qatar và Trung Quốc.
Việt Nam tăng nhập khí đốt
Trong 10 tháng năm 2025, cả nước nhập khẩu hơn 2,79 triệu tấn khí đốt hóa lỏng, trị giá trên 1,7 tỷ USD. So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 5,09%, nhưng trị giá lại giảm 1,28%.
Theo thống kê sơ bộ của Cục Hải quan, riêng tháng 10/2025, Việt Nam nhập khẩu 374.753 tấn
khí đốt hóa lỏng, tương ứng gần 208,4 triệu USD. So với cùng kỳ năm trước, lượng nhập khẩu tăng 38,97%, trong khi trị giá tăng 13,15%.
Tính chung 10 tháng, lượng nhập khẩu khí đốt hóa lỏng vượt 2,79 triệu tấn, trị giá hơn 1,7 tỷ USD, ghi nhận mức tăng 5,09% về lượng nhưng giảm 1,28% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024.
Giá nhập khẩu khí đốt hóa lỏng bình quân 10 tháng đạt 609,54 USD/tấn, giảm 6,06% so với cùng kỳ. Giá giảm khiến trị giá nhập khẩu giảm nhẹ dù sản lượng tăng.
Số liệu thống kê cho thấy Việt Nam nhập khẩu khí đốt hóa lỏng chủ yếu từ 3 thị trường: Malaysia, Qatar và Trung Quốc.
Trong đó, Malaysia tiếp tục là thị trường lớn nhất, với 503.516 tấn nhập khẩu trong 10 tháng, trị giá gần 328,83 triệu USD. So với cùng kỳ, lượng tăng 69,39% và trị giá tăng 65,56%. Malaysia chiếm 18,04% tổng lượng và 19,33% tổng trị giá nhập khẩu khí đốt hóa lỏng của Việt Nam.
Đáng chú ý, Trung Quốc đã vượt Qatar để trở thành thị trường lớn thứ hai. Trong 10 tháng năm 2025, Việt Nam nhập khẩu 249.440 tấn khí đốt hóa lỏng từ thị trường này, trị giá gần 165,99 triệu USD. So với cùng kỳ, lượng giảm 1,41% và trị giá giảm 8,73%, chiếm 8,94% tổng lượng và 9,76% tổng trị giá.
Năm 2024, Việt Nam nhập khẩu hơn 3,1 triệu tấn khí đốt hóa lỏng, trị giá 2,04 tỷ USD, tăng 24% về lượng và 31,5% về trị giá so với năm 2023.
Khí đốt hóa lỏng được sử dụng chủ yếu để chiết nạp vào bình phục vụ nhu cầu dân sinh như nấu nướng, sưởi ấm, phục vụ công nghiệp, phương tiện giao thông, làm chất làm lạnh...
Hiện nguồn cung trong nước mới đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu tiêu thụ, nên giá bán lẻ trong nước chịu tác động lớn từ giá gas thế giới. Trong bối cảnh nhu cầu tiếp tục tăng nhưng nguồn cung tại chỗ chưa theo kịp, nhập khẩu vẫn là giải pháp bù đắp thiếu hụt trong các năm tới.
Đề xuất dự án điện khí LNG được mua bao tiêu 75% trong 15 năm
Trong một diễn biến liên quan,
Chính phủ mới đây đã đề xuất các dự án điện khí LNG nhập khẩu được tăng tỷ lệ bao tiêu lên tối thiểu 75% sản lượng hàng năm, với thời hạn tối đa 15 năm.
Tại tờ trình gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc ban hành Nghị quyết liên quan tháo gỡ và phát triển năng lượng tái tạo quốc gia giai đoạn 2026-2030.
Theo tờ trình, Chính phủ kiến nghị các dự án nhiệt điện khí sử dụng LNG nhập khẩu tiếp tục được bao tiêu sản phẩm, tức là cam kết sản lượng huy động điện. Tỷ lệ bao tiêu do bên bán (nhà máy điện khí LNG) và bên mua (EVN) thỏa thuận, nhưng không thấp hơn 75% sản lượng điện phát bình quân của dự án trong nhiều năm. Cơ chế này áp dụng trong thời gian trả nợ gốc và lãi vay, tối đa 15 năm từ ngày phát điện.
Như vậy, tỷ lệ điện được cam kết bao tiêu với các dự án điện khí LNG tăng thêm 10%, và thời hạn bao tiêu kéo dài thêm 5 năm so với quy định tại Nghị định 100.
Theo Quy hoạch điện VIII điều chỉnh đến năm 2030, tổng nguồn điện khí phải đầu tư mới tối đa gần 37.500 MW, trong đó 60% là khí hóa lỏng LNG (22.524 MW). Con số này tăng khoảng 7.000 MW so với trước khi điều chỉnh. Chính phủ đánh giá điện khí
LNG nhập khẩu là nguồn điện nền quan trọng, giúp bảo đảm cung cấp điện ổn định, hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo và đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế - xã hội.
Trong quá trình triển khai, cơ quan điều hành ghi nhận nhiều kiến nghị từ các chủ đầu tư về việc nâng tỷ lệ bao tiêu lên cao hơn mức 65% hiện hành và kéo dài thời hạn hợp đồng lên 20-25 năm thay vì chỉ 10 năm như hiện nay.
Trước các đề xuất này, Bộ Công Thương nhận định cần thiết rà soát và trình Quốc hội ban hành cơ chế đặc thù mang tính đột phá hơn về sản lượng điện hợp đồng tối thiểu dài hạn để hỗ trợ các dự án. Tuy nhiên, mọi đề xuất phải được xem xét trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp định hướng của Nghị quyết 70 của
Bộ Chính trị về phát triển năng lượng.
Thực tế cho thấy tỷ lệ cam kết bao tiêu nhằm bảo đảm dòng tiền ổn định để chủ đầu tư trả nợ vay. Các doanh nghiệp cung ứng và vận chuyển khí cũng yêu cầu tỷ lệ này để tính toán lượng và giá khí dài hạn. Trong báo cáo năm 2024, EVN cho biết các chủ đầu tư dự án năng lượng khí LNG đề nghị tỷ lệ bao tiêu vào khoảng 72-90% trong toàn bộ thời hạn hợp đồng.
Tuy vậy, tỷ lệ bao tiêu cao có thể làm tăng rủi ro tăng giá điện, bởi chi phí sản xuất mỗi kWh điện khí LNG thường cao hơn nhiều loại hình điện khác do phải sử dụng nhiên liệu nhập khẩu.