Vì sao Việt Nam để lộ bí mật nhà nước?

© AP Photo / Tran Van MinhBộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Tô Lâm
Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Tô Lâm - Sputnik Việt Nam
Đăng ký
Phạm vi, thời hạn, cấp độ, danh mục... liên quan đến bí mật nhà nước là những nội dung ĐBQH quan tâm thảo luận khi nghe Báo cáo thẩm tra dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước chiều 25/10.

Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam Tô Lâm - Sputnik Việt Nam
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm nói về những vụ lộ tài liệu tuyệt mật của Việt Nam
Theo chương trình làm việc tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV, chiều 25/10, Quốc hội đã nghe Tờ trình, Báo cáo thẩm tra hai dự án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và Luật An ninh mạng.

Trình bày tờ Tờ trình Dự thảo luật Bảo vệ bí mật nhà nước, Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết, triển khai thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước số 30/2000/PL-UBTVQH10 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa X thông qua ngày 28/12/2000, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2001, công tác bảo vệ bí mật nhà nước đã đạt nhiều kết quả quan trọng, ý thức trách nhiệm bảo vệ bí mật nhà nước của các cấp, các ngành, của cán bộ, nhân dân được nâng cao; các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương đã xây dựng danh mục bí mật nhà nước, quy chế bảo vệ bí mật nhà nước và tăng cường công tác bảo vệ bí mật nhà nước; các cơ quan chức năng đã được kiện toàn về tổ chức, làm tốt công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, xử lý vi phạm; phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn nhiều âm mưu, hoạt động thu thập bí mật nhà nước của các thế lực thù địch.

Tờ trình cũng nêu rõ, trên cơ sở kế thừa và luật hóa những quy định còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu, chưa bảo đảm khả thi của Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn, Dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được xây dựng và bố cục thành 5 chương, 39 điều quy định về bí mật nhà nước, hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong bảo vệ bí mật nhà nước. Đối tượng áp dụng của luật là các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến bảo vệ bí mật nhà nước.

Nhiều ý kiến về thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước

Trịnh Xuân Thanh - Sputnik Việt Nam
Ai đứng sau vụ lộ tài liệu mật về Trịnh Xuân Thanh?
Bộ trưởng Bộ Công an cho biết theo thống kê, từ năm 2001 đến nay, phát hiện hơn 840 vụ lộ, mất bí mật nhà nước; trong đó, nhiều tài liệu thuộc danh mục Tuyệt mật, Tối mật liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước; chủ trương giải quyết các tranh chấp về biên giới, biển đảo.

Hình thức lộ, mất bí mật nhà nước chủ yếu là qua thông tin, liên lạc; báo chí, xuất bản; quan hệ quốc tế… Một trong những nguyên nhân của việc lộ, mất nêu trên là do hệ thống pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước còn chưa đồng bộ; các chế tài xử lý còn thiếu và yếu chưa bảo đảm tính răn đe; việc xử lý vi phạm còn nể nang, thiếu chủ động…

Xây dựng Luật Bảo vệ bí mật nhà nước để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, vừa bảo đảm cho hoạt động giữ gìn an ninh, trật tự được thuận lợi, vừa bảo đảm quyền con người, quyền công dân được thực hiện theo quy định của Hiến pháp, bảo đảm sự tương thích với các Hiệp định bảo vệ tin mật giữa Việt Nam và các nước; phù hợp với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên, Bộ trưởng Tô Lâm cho hay.

Về thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước, gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước, một số ý kiến tán thành quy định về thời hạn và việc gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước trong dự thảo Luật để bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân theo quy định của pháp luật. Một số ý kiến cho rằng, dự thảo Luật cần quy định rõ thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước trong dự thảo Luật là thời hạn tối đa hay tối thiểu; số lần gia hạn và thời gian cụ thể cho từng lần gia hạn thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước; cách tính thời hạn bảo vệ bí mật nhà nước sau khi được tăng độ mật hoặc giảm độ mật.

Có ý kiến cho rằng bí mật nhà nước độ Tuyệt mật thường liên quan đặc biệt đến an ninh quốc gia, lợi ích quốc gia, dân tộc, nên thời hạn bảo vệ cần quy định dài hơn (có thể là 50 hoặc đến 60 năm) hoặc không nên xác định thời hạn giải mật. Ý kiến khác đề nghị bổ sung loại bí mật nhà nước bảo vệ không thời hạn.

Về giải mật, tiêu hủy bí mật nhà nước, có ý kiến cho rằng dự thảo Luật cần quy định cụ thể việc giải mật, tiêu hủy bí mật nhà nước để bảo đảm việc đầu tư, sử dụng các nguồn lực bảo vệ bí mật nhà nước có hiệu quả, không lãng phí. Ý kiến này cũng đề nghị việc tiêu hủy bí mật nhà nước cần có tiêu chí cụ thể để làm căn cứ quyết định việc tiêu hủy bí mật nhà nước. Mặt khác, việc tiêu hủy bí mật nhà nước chỉ phù hợp với các tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước, không phù hợp với bí mật nhà nước là thông tin. Vì vậy, cần nghiên cứu thiết kế lại khoản 1 Điều 23 để bảo đảm chặt chẽ, rõ ràng hơn và có tính khả thi, đồng thời tránh việc tiêu hủy tùy tiện.

Cần quy định cụ thể hơn về phạm vi bí mật nhà nước

Thượng tướng Nguyễn Văn Thành, Thứ trưởng Bộ Công an - Sputnik Việt Nam
Việt Nam và các vụ lộ, lọt bí mật nhà nước trên không gian mạng
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Võ Trọng Việt nêu rõ, Ủy ban tán thành sự cần thiết ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước như Tờ trình của Chính phủ đã nêu; nhấn mạnh, qua hơn 15 năm thực hiện, Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ bí mật nhà nước. Song tình hình thực tế hiện đã có nhiều thay đổi, quyền tiếp cận thông tin, sử dụng thông tin của công dân trong phát triển kinh tế — xã hội đòi hỏi ngày càng cao. Mặt khác, sự thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải có những giải pháp cụ thể, phù hợp để bảo đảm công tác bảo vệ bí mật nhà nước. Việc xây dựng và ban hành Luật Bảo vệ bí mật nhà nước nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện Pháp lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước thời gian vừa qua.

Về phân loại bí mật nhà nước, phạm vi bí mật nhà nước, hiện vẫn còn có ý kiến khác nhau. Một số ý kiến tán thành với dự thảo Luật vì cho rằng, việc phân loại bí mật nhà nước ở 3 cấp độ Tuyệt mật — Tối mật — Mật như dự thảo là phù hợp. Ý kiến khác cho rằng, phạm vi bí mật nhà nước quy định như dự thảo còn chung chung, không xác định được các lĩnh vực, loại thông tin được xác định là bí mật nhà nước, dễ dẫn tới lạm dụng để ban hành danh mục bí mật nhà nước, ảnh hưởng đến quyền tiếp cận thông tin của công dân.

Thẩm tra về nội dung này, Chủ nhiệm UB Võ Trọng Việt nêu rõ, Ủy ban Quốc phòng và An ninh tán thành việc phân loại bí mật nhà nước theo 3 cấp độ như dự thảo Luật. Tuy nhiên, đề nghị nghiên cứu đánh giá hiệu quả việc áp dụng các quy định này của Pháp lệnh hiện hành, bảo đảm tính khả thi cao khi Luật được xem xét thông qua và có hiệu lực; đồng thời cần quy định cụ thể hơn về phạm vi bí mật nhà nước, làm rõ nội hàm "cần giữ bí mật".

Về danh mục bí mật nhà nước, một số ý kiến tán thành như dự thảo Luật để bảo đảm tính tập trung, thống nhất trong công tác bảo vệ bí mật nhà nước. Một số ý kiến đề nghị nên kế thừa quy định của Pháp lệnh hiện hành theo hướng giao Thủ tướng Chính phủ quyết định danh mục bí mật nhà nước thuộc cấp độ Tuyệt mật và Tối mật; Bộ trưởng Bộ Công an quyết định danh mục bí mật nhà nước thuộc cấp độ Mật.

Có ý kiến đề nghị quy định ngay trong Luật các nguyên tắc, bước lập danh mục bí mật nhà nước để bảo đảm tính cụ thể. Theo Chủ nhiệm UB Võ Trọng Việt, Ủy ban Quốc phòng và An ninh cơ bản tán thành quy định về thẩm quyền quyết định danh mục bí mật nhà nước như dự thảo Luật. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị của nước ta hiện nay, cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu quy định rõ Chủ nhiệm VPQH có trách nhiệm lập danh mục bí mật nhà nước của QH, UBTVQH, các cơ quan của QH, cơ quan của UBTVQH và VPQH. Chánh Văn phòng Trung ương Đảng có trách nhiệm lập danh mục bí mật nhà nước của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan của Trung ương Đảng; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm lập danh mục bí mật nhà nước của Chính phủ và Văn phòng Chính phủ…

Nguồn: Báo Công Lý

Tin thời sự
0
Để tham gia thảo luận
hãy kích hoạt hoặc đăng ký
loader
Phòng chat
Заголовок открываемого материала