Cụ thể, ngày 20/12, trong một chuyến xuất kích tác chiến thường lệ, "Chồn hoang" đã bị sa vào bẫy. Chiếc F-100F Wild Weasel bay kèm tốp 4 chiếc F-105D được 2 biên đội F-4C hộ tống đã phát hiện được một đài radar đang phát sóng và xác định đây là trạm dẫn đường tên lửa SNR — 75 (tiếng Nga- СНР-75).
Sau khi thực hiện một số động tác cơ động giảm độ cao nhằm cắt đuôi MiG, "Thợ săn radar" đã sa vào bẫy hỏa lực tập trung của pháo phòng không 37 ly Bắc Việt chờ sẵn và bị bắn hạ.
Cũng nên nói cho công bằng là việc chế tạo máy bay chuyên dụng từ "Super Cobra" để đối phó với các radar của phòng không Bắc Việt là một giải pháp không phải là tối ưu. Kiểu máy bay tiêm kích này có dung tích bên trong khoang máy bay không đủ lớn để chứa nhiều các trang thiết bị chuyên dụng, trọng lượng tác chiến hạn chế và bán kính hoạt động không lớn nếu được sử dụng để tấn công.
Ngoài ra, tốc độ F-100 còn kém tốc độ của máy bay tiêm kích- ném bom F-105. Do vậy nên máy bay tiêm kích- ném bom F-100 tuy được sử dụng nhiều trong thời kỳ đầu Chiến tranh Việt Nam để tấn công các trận địa của Quân du kích ở Miền Nam, nhưng đến đầu những năm 70 chúng đã được thay thế bằng các máy bay chiến đấu khác mang trọng lượng tác chiến lớn hơn.
Aún así no es suficiente. El Wild Weasel I-A serán 2 F-105D modificados para pruebas. Wild Weasel II usará F-105F. Será el sustituto de los F-100. pic.twitter.com/1CEOmCAQJp
— Deivid Carri (@DCarrionF) 23 июня 2018 г.
Tên lửa "Shrike" được dẫn đến mục tiêu bằng sóng của các radar đang làm việc. Nhưng tên lửa này cũng có một loạt nhược điểm, quan trọng nhất là tầm bắn của nó kém tên lửa phòng không có điều khiển V-750V của SA-75M.
Ngoài tên lửa "Shrike", dưới thân F-105 F Wild Weasel II còn có các bom chùm CBU-24. Thêm nữa, Wild Weasel II còn được trang bị đài phát nhiễu chủ động và những thiết bị trinh sát vô tuyến kỹ thuật rất hiện đại.
Các "thợ săn radar" thường bay cùng đội hình với các máy bay F-105G, — những F-105G này, sau khi trạm radar dẫn đường bị phá hủy bằng tên lửa chống radar của "Thợ săn radar", sẽ lao vào không kích trận địa của các tiểu đoàn phòng không bằng bom bộc phá và bom chùm.
Three Republic F-105 Thunderchief- take off on a mission to bomb North Vietnam, 1966 pic.twitter.com/SwSXIQyD9c
— Rubens Custodio (@CustodioRubens) 11 июля 2018 г.
Như vậy, trên thực tế, "thợ săn radar" giữ vai trò mồi nhử. Sau khi phát hiện được tên lửa đã phóng, phi công lái "Thợ săn radar" hướng thẳng máy bay về phía tên lửa và đến thời điểm cuối cùng mới thực hiện một số động tác cơ động đột ngột để tránh tên lửa.
Khi chỉ còn vài giây trước khi tên lửa lao vào máy bay, phi công cho máy bay bổ nhào xuống phía dưới tên lửa và bay vòng, thay đổi độ cao và hướng bay với độ quá tải tối đa. Nếu may mắn, tên lửa sẽ bay sượt qua máy bay.
Nhưng nếu như có một vài động tác sai sót dù rất nhỏ, các mảnh (đầu tác chiến) của tên lửa sẽ văng trúng ca bin máy bay. Để thực hiện các động tác cơ động kiểu như vậy, phi công phải có trình độ — kỹ thuật bay điêu luyện và phải rất dũng cảm.
Để đối phó với các thợ săn radar của Không quân Mỹ, các chuyên gia Xô Viết khuyến cáo Bộ đội phòng không Việt Nam tiến hành triển khai các trận địa phòng không sau khi đã làm rất kỹ công tác chuẩn bị trận địa.
Làm thêm các trận địa giả và trận dịa dự bị, sử dụng pháo phòng không để bảo vệ các trận địa tên lửa. Để loại trừ khả năng làm lộ vị trí bố trí các tiểu đoàn tên lửa phòng không, Bộ Tư lệnh Việt Nam các đơn vị cấm không được bật máy các radar dẫn đường, radar quan sát, máy đo xa và các đài liên lạc vô tuyến.
Kết quả là chiếc máy bay trinh sát này đã thu thập được các thông tin về hoạt động của hệ thống dẫn đường tên lửa và cơ chế làm việc của ngòi nổ vô tuyến trên đầu tác chiến tên lửa.
Sauk hi phân tích kỹ các thông tin và dữ liệu có được, Không quân Mỹ đã áp dụng ngay các biện pháp tổ chức và kỹ thuật để đối phó với tên lửa phòng không Bắc Việt. Hiệu quả sử dụng tên lửa phòng không giảm đột ngột.
DC-130H carrying AQM-34 target drones flies over USS Chosin (CG-65), May 1995 pic.twitter.com/grE47w5y2u
— David Bober (@mrdavidboberesq) 27 мая 2014 г.
Các máy bay của Không quân và Hải quân Mỹ được lắp thêm container phát nhiễu chủ động.
Đến cuối năm 1967, người Mỹ bắt đầu phát nhiễu phá sóng các kênh tên lửa. Khi máy bay Mỹ phát nhiễu, các radar dẫn đường không còn nhìn thấy tên lửa nên tên lửa bay ở chế độ tự lái cho đến khi hệ thống tự hủy kích hoạt.
Trong trận này, Không quân Mỹ đã sử dụng phương pháp làm mù vô tuyến điện tử (gây nhiễu rãnh đạn tên lửa) vô hiệu hóa toàn bộ gần 90 quả đạn tên lửa phòng không VN trong khi không mất một máy bay nào.
Nhưng không lâu sau đó, Bộ đội tên lửa Việt Nam đã tìm ra cách đối phó bằng cách hiệu chỉnh lại tần số làm việc và tăng công suất tín hiệu trả lời của đạn.
Tên lửa cũng được cải tiến, cự ly tiêu diệt mục tiêu tối thiểu giảm xuống còn 5 km Để hạn chế khả năng bị tổn thương trước tên lửa AGM-45 Shrike, khí tài radar SNR-75 cũng được cải tiến, thời gian phản ứng của khí tài radar này chỉ còn không đến 30 giây. Những tên lửa phòng không mới được chuyển về từ Liên Xô đã được lắp đầu tác chiến có bán kính sát thương lớn hơn cho phép tăng xác xuất tiêu diệt mục tiêu.
Tiếp theo đó, các khẩu đội SA-75M lại chuyển sang sử dụng các kính quang học chỉ huy dã chiến (nguyên văn- kính tiềm vọng-ND) lắp trên các cabin "P" và được kết nối với các khối điều khiển tổ hợp tên lửa phòng không để để bám mục tiêu bằng mắt thường.
Trong nhiều trường hợp, các khẩu đội thực hiện các động tác "giả phóng tên lửa " — tức bật radar dẫn đường ở một chế độ thích hợp nhưng không phóng tên lửa.
Khi đó hệ thống tín hiệu trong cabin của máy bay tiêm kích- ném bom phát tín hiệu thông báo cho phi công biết là tên lửa phòng không đối phương đang nhằm vào máy bay.
Thường thì trong trường hợp này, phi công Mỹ sẽ trút hết bom và thực hiện các động tác cơ động để tránh tên lửa và vì thế tự đưa mình vào vùng sát thương của hỏa lực pháo phòng không.
Để đối phó với các máy bay chiến đấu Mỹ thâm nhập ở độ cao thấp, vào năm 1967. Bộ đội phòng không Việt Nam nhận và đưa vào trực chiến các radar P-15 lắp trên xe ZIL-157.
Cùng với radar P-15, Bộ đội phòng không Bắc Việt cũng được trang bị thêm radar phát sóng liên tục P-35 và máy đo cao PRV-11- những radar này cũng được sử dụng để dẫn đường cho các máy bay tiêm kích. Tổng cộng, đến năm 1970, VNDCCH đã được Liên Xô chuyển giao hơn 100 radar.
Ngoài việc tăng cường khả năng chiến đấu cho Không quân, Bộ đội tên lửa phòng không và các đơn vị vô tuyến kỹ thuật, trong giai đoạn này số lượng pháo phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng tăng rất đáng kể.
Chỉ sau một năm kể từ khi Không quân Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đường không quy mô lớn trên lãnh thổ Bắc Việt Nam, đã có hơn 2.000 khẩu pháo phòng không cỡ nòng từ 37 đến 100 ly tham gia các trận đánh trả máy bay Mỹ, và cũng trong thời gian đó Liên Xô và Trung Quốc liên tục bổ sung cho Việt Nam môt số lượng lớn pháo phòng không.
Bộ đội Bắc Việt thường bố trí các đại đội phòng không trang bị pháo 85 và 100 ly quanh thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng với nhiệm vụ chủ yếu là bắn chặn, còn các đơn vị pháo 37 và 57 ly có tốc độ bắn nhanh hơn, khả năng cơ động tốt hơn được sử dụng để bảo vệ cầu, kho, kho chứa nhiên liệu sân bay, trận địa tên lửa phòng không và đài radar quan sát.
Vào cuối những năm 60, Quân đội Việt Nam bắt đầu được trang bị pháo phòng không tự hành (ZSU) Type 63 Trung Quốc. Kiểu pháo tự hành này được Trung Quốc chế tạo bằng cách thay tháp pháo tăng T-34-85 bằng tháp pháo phòng không 37 ly hai nòng B-37.
Kiểu pháo phòng không có cự ly và độ cao tiêu diệt mục tiêu lớn hơn cả là tổ hợp pháo phòng không tự hành Xô Viết ZSU-57-2 lắp trên khung gầm tăng T-54. Pháo tự hành này được lắp pháo hai nòng 57 ly S-69.
Nói chung, nhược điểm chủ yếu của pháo phòng không tự hành cả của Trung Quốc lẫn Liên Xô là không có thiết bị ngắm bắn radar nên độ chính xác khi bắn không cao và nói chung pháo tự hành 37 và 57 ly chủ yếu thực hiện vụ bắn chặn.
Tuy nhiên, những kiểu pháo này cũng đã giữ một vai trò rất quan trọng- chúng (hất) các máy bay Mỹ lên cao (để tên lửa phòng không "xử lý") và buộc máy bay Mỹ phải cắt bom ở độ cao lớn và vì thế làm giảm rất mạn hiệu quả của các đợt ném bom đánh phá mục tiêu.
Chính pháo phòng không Bắc Việt đã bắn hạ 2/3 trong tổng số máy bay Mỹ bị bắn rơi trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Trong hơn 3 năm tiến hành các cuộc tấn công đường không quy mô lớn vào Bắc Việt Nam,- Không quân, Không quân hải quân và Không quân Quân đoàn lĩnh thủy đánh bộ Mỹ đã mất tổng cộng 3.495 máy bay các loại.
Do phải chịu tổn thất ngày càng tăng và bị phản đối mạnh mẽ, vào tháng 3/1968, Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán hoà bình với VNDCCH tại Paris- cuộc chiến tranh đường không vào lãnh thổ VNDCCH (lần thứ nhất) tạm thời kết thúc.
Theo: Báo Đất Việt