Việt Nam đang trỗi dậy
© Sputnik / Taras IvanovHà Nội
© Sputnik / Taras Ivanov
Đăng ký
Cựu Phó Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ SD Pradhan đánh giá, kinh tế Việt Nam đã đạt thành quả đặc biệt, mức tăng trưởng GDP 8,012% là con số cao nhất từ năm 1997, đồng thời, dẫn đầu khu vực Đông Á-Thái Bình Dương.
Điều gì làm nên thành công và sự trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam? Ấn Độ có thể mang đến cho Hà Nội lợi thế hợp tác gì và đâu là những định hướng cần ưu tiên trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ thời gian tới?
Chuyên gia Ấn Độ: Kinh tế Việt Nam đạt hiệu quả tuyệt vời
Trong một bài bình luận mới đây đăng trên tờ Times of India, Cựu Phó Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ SD Pradhan phân tích rằng, mức tăng trưởng kinh tế 8,02% của Việt Nam năm 2022 là thành quả đặc biệt, cao hơn một số nước châu Á và là mức tăng trưởng nhanh nhất Việt Nam ghi nhận kể từ năm 1997.
Tháng 10/2022, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đều đưa ra dự báo, Việt Nam sẽ dẫn đầu khu vực Đông Á-Thái Bình Dương với mức tăng trưởng khoảng 7,2% cho năm 2022. Con số này hoá ra vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng thực tế (8,02% - như Sputnik đã thông tin).
Tỷ lệ lạm phát ở mức khoảng 4% cho thấy Việt Nam có thể giữ được lạm phát ở mức thấp trong khi các quốc gia khác đang phải đối mặt với tình hình lạm phát gia tăng và giá cả leo thang.
Chuyên gia cấp cao Pradhan cho rằng: “Các số liệu được Việt Nam công bố đã cho thấy hiệu quả kinh tế tuyệt vời mà nước này đạt được trong bối cảnh bất ổn và thách thức về kinh tế và chính trị toàn cầu”.
Theo đó, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đạt mức tăng trưởng 7,78% trong năm 2022, trong khi lĩnh vực dịch vụ tăng trưởng 9,99% và lĩnh vực nông nghiệp tăng trưởng 3,36%. Xuất khẩu của Việt Nam tăng 10,6% lên 371,85 tỷ USD, trong khi tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 19,8%.
3 nguyên nhân làm nên sự trỗi dậy của nền kinh tế Việt Nam
Chuyên gia Ấn Độ lý giải, tăng trưởng kinh tế thần kỳ của Việt Nam không phải điều ngẫu nhiên hay hoàn toàn bất ngờ.
"Nhiều người có thể thấy, điều này ngạc nhiên nhưng với những ai theo dõi quỹ đạo tăng trưởng của Việt Nam kể từ năm 1986 thì đều có thể đoán trước được vấn đề", - báo Quốc tế dẫn lời ông Pradhan nhận định.
Năm 1986, Việt Nam nhận thấy tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng kinh tế khi đó chỉ ở mức 2,8%, thuộc hàng thấp nhất châu Á với tỷ lệ lạm phát cao. Từ đó, chính sách Đổi mới ra đời với mục đích là chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình sử dụng các lực lượng thị trường để phân bổ nguồn lực.
Trong lĩnh vực công nghiệp, các doanh nghiệp tư nhân được khuyến khích và trong nông nghiệp, canh tác tập thể bị bãi bỏ, quyền sở hữu đất đai tư nhân được công nhận.
Những cải cách này đã nhanh chóng chứng minh hiệu quả. Năm 1986, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam lên trên mức 70%, và đến năm 2020 chỉ còn 5%. GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gần 10 lần, từ dưới 300 USD năm 1986 lên 2.800 USD vào năm 2020.
Theo báo cáo của ngân hàng Standard Chartered, nếu GDP của Việt Nam tăng trưởng 7% trong những năm 2020, thì vào năm 2030, GDP bình quân đầu người sẽ vượt mốc 10.000 USD.
Năm 2020, khi đại dịch Covid-19 đang hoành hành thế giới, tất cả các quốc gia đều có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp, thậm chí một số quốc gia tăng trưởng âm, thì Việt Nam vẫn tăng trưởng rất ấn tượng ở mức 3%.
Trước đó, Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) nêu nhận định về 3 yếu tố chính làm nên sự trỗi dậy của nền kinh tế Việt Nam. Theo đó, thứ nhất là Việt Nam đã đón nhận tự do hóa thương mại một cách cởi mở. Như Sputnik đề cập, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở nhất thế giới.
Điều quan trọng thứ hai, theo WEF, Việt Nam đã bổ sung cho quá trình tự do hóa bên ngoài bằng các cải cách trong nước thông qua bãi bỏ quy định và hạ thấp chi phí kinh doanh. Cơ sở này giúp đất nước trở nên hấp dẫn hơn trong mắt nhà đầu tư và tạo được lợi thế cạnh tranh cho quốc gia Đông Nam Á này.
Thứ ba, Việt Nam đã đầu tư rất nhiều vào con người và vốn vật chất, chủ yếu thông qua đầu tư công. Nhiều định chế tài chính cũng như chuyên gia quốc tế đồng thuận rằng, nhờ tôn chỉ “con người là trung tâm”, các chính sách phát triển của Việt Nam hướng đến việc nâng cao chất lượng, năng suất nguồn lao động, đồng thời, ngày càng hiện đại hoá đồng bộ cơ sở hạ tầng.
Bên cạnh đó, sự sẵn có của nguồn lao động giá rẻ và chính phủ ổn định cũng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/12, Việt Nam đã thu hút được tổng vốn FDI là 27,72 tỷ USD, bằng 89% so với cùng kỳ năm 2021.
Như chúng tôi đã nhiều lần đề cập, Việt Nam cũng đã trở thành một phần quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu cho dệt may, da giày và sản xuất điện tử. Các “ông lớn” toàn cầu như Samsung, Apple & đối tác cung ứng, Adidas, Nike, LG, LEGO…trong số nhiều công ty khác, đang hiện diện sản xuất ở nước này.
Thách thức
Tuy nhiên, theo chuyên gia, có một số thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong việc duy trì tốc độ tăng trưởng cao thời gian tới.
Theo đó, nếu trở thành một trong những trung tâm sản xuất quan trọng của thế giới, Việt Nam nên thu hút nhiều công ty sản xuất hơn bằng cách giải quyết các mối quan tâm của những “ông lớn” toàn cầu. Có 4 động lực sẽ cần được thúc đẩy hơn nữa, bao gồm: đầu tư cao hơn, sự sẵn có của các công nghệ quan trọng, đủ lực lượng lao động lành nghề, cơ sở hạ tầng và cải thiện kết nối với thị trường.
Ngoài ra, các công ty nước ngoài cần được đảm bảo rằng các quy định kinh doanh có thể được sửa đổi nếu cần. Điều này sẽ giúp họ tự tin để làm việc. Các cơ sở đào tạo sẽ phải được tăng cường đáng kể để có đủ số lượng công nhân lành nghề đáp ứng yêu cầu. Những điều này đòi hỏi sự hợp tác với các quốc gia khác.
Việt Nam và Ấn Độ nên “bắt tay hợp tác”
Trên nền tăng trưởng mạnh mẽ, chuyên gia Pradhan cho rằng, Ấn Độ và Việt Nam có thể hợp tác chặt chẽ hơn.
“Giữa hai nước có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và có mối quan hệ rất chặt chẽ về kinh tế, quốc phòng”, - ông Pradhan nhấn mạnh.
Cần nhắc lại rằng, hiện Ấn Độ là một trong những đối tác thương mại lớn thứ 8 của Việt Nam trong khi Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ 15 của Ấn Độ và thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Thêm vào đó, Việt Nam đang cố gắng đa dạng hóa thương mại và có ý định tận dụng thị trường đang phát triển của Ấn Độ.
Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Ấn Độ chủ lực là điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, hóa chất, chất dẻo, cao su, cà phê, tiêu, điều. Ngược lại, các mặt hàng Ấn Độ xuất khẩu chủ yếu sang Việt Nam là sản phẩm sắt thép, nguyên phụ liệu dệt may, thủy sản, ngô, dược phẩm và dược liệu, phụ tùng ô tô…
“Việt Nam chiếm vị trí trung tâm trong Chính sách Hành động phía Đông của Ấn Độ cũng như trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương”, - chuyên gia nêu rõ và lưu ý rằng, Ấn Độ đã có những đóng góp tích cực vào việc nâng cao năng lực và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
Ấn Độ cũng đã và đang hỗ trợ Việt Nam trong khuôn khổ ASEAN.
Trong khuôn khổ Hợp tác Mekong-sông Hằng (MGC), Ấn Độ đã và đang thực hiện các Dự án Tác động nhanh (QIP), mỗi dự án trị giá 50.000 USD, tại các tỉnh khác nhau của Việt Nam để phát triển cơ sở hạ tầng cộng đồng.
Tính đến nay, Ấn Độ có 317 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư trên 1 tỷ USD tại Việt Nam, đứng thứ 23/129 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
“Có nhiều triển vọng hợp tác trong lĩnh vực kinh tế giữa hai nước. Ấn Độ đang theo đuổi Chính sách Hành động phía Đông và đang nỗ lực làm cho khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trở nên tự do và rộng mở, điều này sẽ thúc đẩy an ninh và tăng trưởng cho tất cả trong khu vực (SAGAR)”, - cựu Cố vấn an ninh quốc gia Pradhan cho biết.
Vừa qua, Việt Nam đã đặt ra các ưu tiên tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm chuyển đổi kỹ thuật số quốc gia, phát triển nền kinh tế dựa trên kỹ thuật số, nhấn mạnh hơn vào phát triển khoa học và công nghệ và tạo môi trường thuận lợi cho phát triển doanh nghiệp cũng như các ngành sản xuất.
“Ấn Độ có thể giúp đào tạo kỹ năng cho người Việt Nam trên quy mô lớn hơn”, - cựu Cố vấn an ninh quốc gia Ấn Độ tin tưởng.
Trong lĩnh vực kỹ thuật số, sự hỗ trợ của Ấn Độ có thể có giá trị to lớn đối với Việt Nam trong việc tăng cường "thuận lợi cho hoạt động kinh doanh". Điều quan trọng là cả hai quốc gia đều mong muốn một khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương ổn định, rộng mở, tự do và bao trùm, điều cần thiết cho giao dịch và thương mại. Một nỗ lực lớn hơn là cần thiết để xác định các lĩnh vực hợp tác.
Cuối cùng, ông Pradhan cho rằng, các chuyên gia kinh doanh và kinh tế của cả hai nước nên chuẩn bị một kế hoạch định hướng hành động có thời hạn để thúc đẩy năng lực sản xuất, giao dịch và thương mại của cả hai nước. Việt Nam và Ấn Độ cũng cần thiết lập chuỗi cung ứng đáng tin cậy với các thị trường đã được xác định để phát triển mạnh mẽ.