“Từ các học viện Nga du học sinh Việt Nam về nước để tham gia kháng chiến”
© Sputnik / Boris KavashkinSinh viên Việt Nam trong thời gian thực tập tại Nhà máy luyện kim Cherepovets (nay là Nhà máy đúc và cơ khí Cherepovets).

© Sputnik / Boris Kavashkin
Đăng ký
Trong loạt bài mạn đàm “Những trang sử vàng” về những mốc ngày tháng, sự kiện và giai đoạn đáng ghi nhớ trong lịch sử cảm thông và hợp tác giữa Nga và Việt Nam, Sputnik tiếp tục chủ đề về việc đào tạo người Việt Nam trên đất Nga.
Xin nhắc lại rằng, vào mùa hè năm 1951, nhóm thanh niên Việt Nam đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám gồm 21 người đã đến Matxcơva để học nghề tại các trường đại học Liên Xô. Đây là thời kỳ đỉnh cao của cuộc Kháng chiến chống Pháp. Nhóm sinh viên thứ hai gồm 49 người được cử sang Liên Xô vào năm 1953. Và 70 năm trước, vào năm 1955, Việt Nam và Liên Xô đã ký hiệp định liên chính phủ đầu tiên về việc cử công dân Việt Nam đi học tại các cơ sở giáo dục đại học và nghề nghiệp của Liên Xô, chủ yếu là Nga.
Hàng chục trường đại học quân sự và dân sự của Nga đã được trao tặng các giải thưởng nhà nước của Việt Nam trong những năm hợp tác Xô-Việt trong lĩnh vực này. Trong số những đơn vị đầu tiên được trao giải thưởng là các trường quân sự và học viện quân sự. Đến giữa những năm 1990, 13.500 quân nhân của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được đào tạo tại các cơ sở giáo dục này. Các trường quân sự đã đào tạo phi công và lính xe tăng, lính dù và lính pháo binh, lính liên lạc và lính biên phòng. Chỉ riêng trong năm 1966-1967, năm trung đoàn tên lửa phòng không của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được đào tạo tại Liên Xô, với số lượng khoảng ba nghìn người. Và nếu nói về lực lượng phòng không, lực lượng tên lửa phòng không và lực lượng không quân thì đến giữa những năm 1990, các học viện Nga đã đào tạo khoảng 4.500 sĩ quan, mà phần lớn là các nhân viên chỉ huy các binh chủng này.
Trong số những người tốt nghiệp các học viện quân sự Nga có các tướng lĩnh tương lai Lê Văn Tri và Nguyễn Văn Cốc đã trở thành Tư lệnh Lực lượng Phòng không- Không quân Việt Nam vào những thời điểm khác nhau, và tướng Nguyễn Phú Thái từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Trong những năm Việt Nam đánh trả cuộc không chiến của Mỹ, cựu du học sinh Nguyễn Văn Tuyến đã chỉ huy Trung đoàn tên lửa 236 là một trong những trung đoàn đầu tiên được thành lập bởi các chuyên gia quân sự Nga trong Quân đội nhân dân Việt Nam, thuộc Binh chủng Tên lửa Phòng không. Và cựu du học sinh Hồ Chí Hữu đã là sư đoàn trưởng trong trung đoàn này, và sau đó ông giữ chức vụ Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân chủng Phòng không – Không quân. Cựu du học sinh Hồ Anh Bát đã chỉ huy sư đoàn phòng không bảo vệ Hải Phòng khỏi các cuộc không kích của Mỹ.
Danh sách những phi công xuất sắc nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam, những người đã bắn rơi nhiều máy bay nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chủ yếu bao gồm những phi công được đào tạo tại Nga: trong đó có Nguyễn Văn Cốc, Mai Văn Cường và Nguyễn Hồng Nhị. Và Phạm Tuân, người Việt Nam duy nhất ba lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng, sau khóa đào tạo đầu tiên tại Nga, đã bắn hạ chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52 trên bầu trời Hà Nội. Đây là lần đầu tiên "pháo đài bay" bị bắn hạ không phải bằng tên lửa, mà là trong trận không chiến. Sau trận chiến này, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vào năm 1973. Và sau khóa đào tạo thứ hai tại Thành phố các ngôi sao (Star City) gần Matxcơva, ông đã trở thành nhà du hành vũ trụ đầu tiên của Việt Nam và được phong tặng hai danh hiệu cao: Anh hùng Lao động Việt Nam và Anh hùng Liên Xô.
Nhưng ngay cả trong những năm chiến tranh khắc nghiệt nhất đối với Việt Nam, sự hỗ trợ của Liên Xô và Nga cho Việt Nam trong việc đào tạo chuyên gia không chỉ giới hạn trong lĩnh vực quân sự. Chúng tôi sẽ đề cập đến nội dung này trong bài mạn đàm tiếp theo của loạt bài "Những trang sử vàng".