Việt Nam vinh danh đạo diễn phim Liên Xô xuất sắc

Chiến thắng Điện Biên Phủ vào mùa xuân năm 1954 của nhân dân Việt Nam có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới.
Sputnik
Chiến thắng này không những biểu dương cho toàn thế giới về tinh thần anh dũng vĩ đại của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập và tự do của mình, mà còn chứng tỏ một cách hiển nhiên rằng, chế độ thực dân không thể thoát chết, không có tương lai. Nhân dân Liên Xô đã rất phấn khởi được biết tin vui về chiến thắng Điện Biên Phủ. Muốn ghi lại trực tiếp chủ nghĩa anh hùng và những chiến công của nhân dân anh em, một đoàn làm phim thời sự tài liệu Liên Xô đã sang Việt Nam. Đó là 3 người: một nhà đạo diễn nổi tiếng Roman Karmen và hai nhà quay phim – Epgheni Mukhin và Vlađimia Esurin.
Roman Karmen là nhà đạo diễn Liên Xô nổi tiếng, đã quay rất nhiều sự kiện của thế kỷ 20, như sự thất bại của bọn phát-xít Đức ở Xtalingrát, sự thất bại của thực dân Pháp ở Việt Nam, cuộc cách mạng Cuba, v.v. Những bộ phim do Karmen để lại, thể hiện sự sâu đậm lịch sử.
Thủ tướng Phạm Minh Chính: Việt Nam luôn nhớ về sự ủng hộ của nhân dân Liên Xô và Nga
Roman Karmen và đoàn làm phim Liên Xô đã đến Việt Nam một thời gian ngắn sau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc và giúp Việt Nam ghi lại những giờ phút hào hứng của cuộc Kháng chiến chống Pháp, tái hiện một giai đoạn của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước.
Trước khi rời Mátxcova, đoàn làm phim Liên Xô đã gặp mặt và nói chuyện với ông Nguyễn Lương Bằng, Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô. Ông Đại sứ đã trả lời nhiều câu hỏi của những người điện ảnh Xô Viết, góp nhiều ý kiến rất bổ ích về chuyến đi sắp tới của họ: về máy móc và kĩ thuật quay phim, những điều kiện bảo tồn phim ảnh, vận chuyển và bao gói máy móc điện ảnh, những điều kiện sống trong khí hậu nhiệt đới châu Á rất mới lạ đối với họ.

Ông Nguyễn Lương Bằng đã dặn dò họ: “Nhân dân chúng tôi rất nóng lòng chờ các đồng chí Liên Xô sang Việt Nam. Các đồng chí sẽ phải tiến hành nhiều công việc khó khăn và nặng nhọc, nhưng Chính phủ và các đoàn thể xã hội của chúng tôi sẽ giúp các đồng chí và làm những gì có thể trong điều kiện thời chiến”.

Các nhà điện ảnh Liên Xô có nhiệm vụ “quay một bộ phim về Việt Nam và ghi lại cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì nền độc lập của mình”.
Trong nhật kí của mình, đạo diễn Roman Karmen đã viết: “Chúng tôi hiểu rõ rằng thực hiện nhiệm vụ này hết sức khó vì đoàn làm phim chúng tôi sẽ sang một đất nước hoàn toàn xa lạ, mặc dù về tinh thần và tình cảm rất gần gũi với mọi người Liên Xô. Hơn nữa, thiếu sách báo để làm quen và tìm hiểu đất nước Việt Nam, chỉ có một cuốn sách của tác giả người Pháp. Qua cuốn sách này, chúng tôi đã có được khái niệm về Việt Nam trong chừng mực nào đấy”.
Những trang sử vàng
Tổ hợp thủy điện Hòa Bình: Chiến công kỳ vĩ của tập thể xây dựng Việt Nam và Liên Xô
Ngày 16-5-1954, đoàn làm phim Liên Xô rời Mátxcova và đặt chân đến Việt Nam ngày 24-5-1954. Ông Karmen và hai người đồng sự đi chuyên cơ do chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh thu xếp để bay tới Bắc Kinh. Đoàn làm phim mang theo nhiều máy móc và thiết bị, phim ảnh, máy ghi âm, v.v. – tổng trọng lượng 900 kg. Họ bay 2 ngày tới Bắc Kinh, sau đó tiếp tục bằng máy bay khác đến một thành phố Trung Quốc ở biên giới. Chặng đường còn lại, đoàn đi bằng xe lửa và các phương tiện khác, và rốt cuộc đã đến nơi.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi mau chóng nên khi đoàn của Roman Karmen vượt biên giới Trung – Việt vào khu giải phóng thì chiến thắng Điện Biên Phủ đã diễn ra được nửa tháng.

Còn đây là những cảm tưởng đầu tiên của những người điện ảnh Liên Xô về đất nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam: “Khi còn ở Mátxcova, ông Đại sứ Việt Nam đã bảo rằng ở Việt Nam chúng tôi không gặp được một người Liên Xô nào, rằng chúng tôi là những người Xô Viết đầu tiên vượt qua biên giới Việt Nam… Chính vì vậy chúng tôi coi nhiệm vụ này rất khó khăn, bởi cần phải quay một bộ phim sâu và nói rõ bản chất cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chứ không phải một bộ phim hời hợt. Thế mà khi chúng tôi chỉ vừa qua biên giới đã thấy một bầu không khí hữu nghị - chúng tôi được những người Việt Nam hôn và ôm chặt. Chúng tôi đã bước chân trên đất Việt Nam với những tình cảm rằng chúng tôi đến một đất nước yêu mến chúng tôi”.

Trong đoàn làm phim Liên Xô đã có sự phân công lao động, họ chia làm 3 nhóm, trước khi hội tụ về Hà Nội để quay cảnh đại quân Việt Nam tiếp quản Thủ đô: Roman Karmen làm phim ở chiến khu Việt Bắc, gặp gỡ và quay cảnh về các lãnh tụ Việt Nam. Nhóm do ông Esurin phụ trách, chuyên về cuộc sống của nhân dân Việt Nam, đến tỉnh Nghệ An. Còn nhóm thứ 3, nhóm của ông Mukhin, trong đó có nhà văn Nguyễn Đình Thi và quay phim phụ Nguyễn Khắc Lợi, chuyên quay về quân sự, lên Điện Biên Phủ và nhiều tỉnh khác. Mỗi một người trong 3 nhóm đó ghi lại những sự kiện và con người cụ thể đồng thời tạo nên một bức tranh hùng vĩ của kháng chiến chống Pháp, phản ánh đất nước và nhân dân Việt Nam trong một thời điểm cực kì quan trọng của lịch sử dân tộc. Đó là những trận tấn công dũng cảm của đội du kích, những cảnh về đời sống dần hòa bình và ổn đình ở các thành phố, những thay đổi ở nông thôn, cảnh Quân đội nhân dân Việt Nam vào thủ đô Hà Nội, một trại tù binh pháp, v.v.
Roman Karmen đã nổi tiếng ở Việt Nam đến nỗi khi ông tới Việt Nam và sau khi trở về Mátxcova, “những người Việt Nam coi bất kì nhà quay phim châu Âu nào cũng là nhà điện ảnh Liên Xô Roman Karmen”.
Tướng Phạm Văn Trà nhắc bài học Việt Nam cần nhớ sau sự kiện Liên Xô sụp đổ
Cùng với những nhà điện ảnh Liên Xô, Nguyễn Hồng Nghi, Phạm Văn Khoa, Nguyễn Tiến Lợi, Mai Lộc, Nguyễn Khánh Dự, Nguyễn Khắc Lợi, Nguyễn Đặng Bảy, Bùi Đình Hạc, Nguyễn Đắc và các nhà quay phim và nhân viên kĩ thuật Việt Nam khác đã ghi lại hoàn cảnh chiến đấu và đời sống hằng ngày, cảnh lao động dũng cảm của đất nước Việt Nam. Về sau, họ đã trở thành các nghệ sĩ nổi tiếng của ngành điện ảnh dân tộc Việt Nam.
Cùng với các nhà điện ảnh Liên Xô, vai kề vai, những người quay phim và đạo diện Việt Nam, cũng thực hiện bộ phim này. Đối với họ, công việc này, tức là quay phim “Việt Nam trên con đường chiến thắng” không những trở thành một trường học tuyệt vời để lĩnh hội những kĩ năng chuyên nghiệp và nâng cao tay nghề, mà còn đánh dấu bước đầu trên con đường hợp tác lâu dài và có kêt quả giữa các nhà điện ảnh hai nước
Các vị lãnh tụ Việt Nam – Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, các nhà hoạt động văn hóa Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đã ủng hộ và giúp đỡ rất nhiều đoàn làm phim.
Trong hồi ức, Roman Karmen đã dành tình cảm và có ấn tượng đặc biệt về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ông Karmen viết: “Có những cuộc gặp đã ghi lại trong kí ức suốt một đời người, để lại trong tâm thức và trong lòng vết hằn sâu đậm không gì sánh nổi. Đó là cuộc gặp của đoàn điện ảnh chúng tôi với đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đi men theo một con đường mòn hẹp, men theo một vực thẳm, bên dưới vang tiếng thác. Rồi chúng tôi đi sâu vào một rừng tre, rừng cọ, chuối dại… chợt thấy một ngôi nhà tre rất khiêm tốn. Từ trên bậc thềm, một người mặc quần áo nông dân màu nâu tiến về phía chúng tôi. Nếu gặp Chủ tịch mấy ngày trước, trên đường đi, trên đồng ruộng, hẳn chúng tôi sẽ cho đây là một người nông dân bình thường”.

Hồ Chí Minh đã chào chúng tôi bằng tiếng Nga rất thạo: “Chào các đồng chí!”.
Những trang sử vàng
Liên Xô và Việt Nam: tài liệu giải mật về thời chiến
Chúng tôi rất ngạc nhiên và khâm phục tính khiêm tốn, thái độ có thiện ý, cách suy nghĩ hết sức logic của Người, cách thông hiểu bản chất của vấn đề.
Hồ Chí Minh rất quan tâm tới công việc của đoàn điện ảnh Liên Xô, hứa giúp đỡ và yêu cầu mọi người tạo điều kiện tốt nhất cho đoàn làm việc, kể cả việc kiên quyết không cho chúng tôi đi ô tô ban ngày để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho đoàn làm phim. Duy chỉ có một điều bác Hồ đề nghị, Roman Karmen hãy quay nhiều hơn hình ảnh những con người Việt Nam bình thường đã làm nên những chiến công lịch sử.
Roman Karmen, từng gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, hỏi ý kiến và luôn được Người đáp lại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường hay nói về những tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với Liên Xô và đoàn làm phim Liên Xô: “Những người Việt Nam sẽ thổ lộ tình cảm của mình với ba nhà điện ảnh Liên Xô là đại diện của toàn thể nhân dân Xô Viết”.
Nhờ sự giúp đỡ của Bác Hồ, đạo diễn Karmen đã hoàn thành được những cảnh quay dựng tại Điện Biên Phủ sau khi chiến dịch kết thúc như sau: Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp dưới hầm chỉ huy, bộ đội Việt Nam ào ạt xông lên tấn công hầm De Castries, cảnh phất cờ trên nóc hầm…
Phim có sử dụng một số cảnh tư liệu của cac nhà quay phim Việt Nam thời đó như Mai Lộc, Nguyễn Tiến Lợi, Nguyễn Hồng Nghi, Quang Huy (cảnh máy bay bị bộ đội Việt Nam bán rơi, cảnh đoàn tàu hỏa của Pháp bị quân Việt Nam đốt cháy, v.v.). Các nhà làm phim Việt Nam cũng đã giúp đạo diển Karmen dựng một giáo bằng tre để đặt máy quay, sao cho góc quay thật đẹp, thật hoành tráng. Riêng cảnh về chiến dịch Điện Biên Phu, đạo diễn Karmen đã phải dựng lại. Để quay các đại cảnh, hàng ngàn chiến sĩ Điện Biên Phủ đã được huy động đóng phim.
Trong phim “Việt Nam”, ông Karmen để tâm nhiều nhất và gây ấn tượng nhất là đại cảnh hàng nghìn tù bình Pháp lũ lượt diễu qua ống kính như biểu tượng thất bại của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Người dạy tiếng Nga cho 100 'hạt giống đỏ' Việt Nam đầu tiên sang Liên Xô học tập
Một cảnh có ý nghĩa lớn nữa là cảnh đoàn giải phóng tiến vào tiếp quản thủ đô. Đường phố Hà Nội vắng vẻ, chỉ có những người lính Pháp chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn. Hình ảnh người lính Pháp cuối cùng rút khỏi cầu Long Biên như dấu chấm hết cho một mưu đồ xâm lược thực dân… Và sau đó cả Hà Nội tưng bừng có hoa và oà vui chiến thắng, người dân thủ đô chào đón nồng nhiệt Trung đoàn thủ đô.
Bên cạnh gương mặt của các vị lãnh tụ quen thuộc, rất nhiều khuôn mặt của các nhân vật lịch sử xuất hiện trong phim, như cac nha y hoc Tốn Thất Tùng, Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, thiếu tướng Vưong Thừa Vũ, chủ tịch Uy ban nhân dân đầu tiên của thành phố Hà Nội, bác sĩ Trần Huy Hưng… Đo la những gương mặt cao quý mà thế hệ trẻ ngày nay ít có cơ hội được nhìn thấy.
Ở Việt Nam, Karmen đã làm quen và kết bạn với hai nhà văn Việt Nam là Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi. Trong cả cuộc đời của mình, Karmen thường xuyên tiếp xúc, quan hệ hữu nghị và sáng tác với hai nhà văn này. Những bức thư của Karmen thể hiện rõ những tình cảm anh em thật sự. Chẳng hạn, trong bức thư đề ngày 16-8-1954 gửi Tố Hữu, Karmen tỉ mỉ viết về những ngày quay phim, về việc thăm quan hai tỉnh Nam Định và Thanh Hóa.

Karmen nêu một vài sự kiện và chi tiết cụ thể như sau: “Chúng tôi làm việc rất nhiều. Hôm qua chúng tôi gửi đến Mátxcova một lô tư liệu phim mới – khoảng 6.000 mét. Giờ chúng tôi bắt đầu quay chiến sự, cố gắng kết thúc quay ở Việt Bắc càng nhanh càng tốt, để chuẩn bị công việc ở Hà Nội. Ở đó, chúng tôi sẽ tận mắt thấy những sự kiện hết sức cảm động… Tôi sắp viết xong bài dài đầu tiên của tôi cho báo Văn Học. Tôi đã nhận được nhiều bức điện từ Mátxcova yêu cầu tôi phải viết về Việt Nam. Những độc giả Xô Viết của chúng tôi rất muốn biết thêm về Việt Nam, đọc những điều thực tế của người chứng kiến, bởi hiện các thông tin chính thức và nhạt nhẽo chưa đủ thỏa mãn yêu cầu của nhân dân Liên Xô về cuộc sống của đất nước Việt Nam xa mà gần”.

Những trang sử vàng
Chiến sĩ Liên Xô và Việt Nam cứu sống lẫn nhau
Những lời dòng viết này đã cho thấy rõ sứ mệnh quan trọng của đoàn làm phim Liên Xô ở Việt Nam.
Một kết quả nữa từ hoạt động điện ảnh của Karmen ở Việt Nam là cuốn sách “Ánh sáng trong rừng thẳm”. Ông đã gửi cuốn đầu tiên tặng cho Chủ tịch Hồ Chí Minh kèm bức thư:
“Kính gửi đồng chí Hồ Chí Minh quý mến!
Cuốn sách “Ánh sáng trong rừng thẳm” vừa ấn hành, tôi rất hạnh phúc và cảm động gửi cuốn sách này đến các bạn Việt Nam của tôi.
Cuốn sách này là kết quả hoạt động khiêm tốn của tôi – một nhà báo, nhà điện ảnh Liên Xô, hết lòng yêu mến đất nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam. Tôi xin dành cuốn sách này cho những người Việt Nam hào hiệp và cao quý, những chiến sĩ vì tự do, những người lao động.
…Tôi tin chắc tôi sẽ trở lại Việt Nam và viết thêm những trang mới về những thắng lợi mới của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì hạnh phúc, hòa bình và thống nhất đất nước”.
Ông Karmen gửi cuốn thứ 2 tặng cho nhà văn Nguyễn Đình Thi. Trong thư kèm theo có những dòng chữ như sau:
“Thưa anh Thi, người bạn quý mến của tôi,
Xin gửi anh Thi cuốn sách “Ánh sáng trong rừng thẳm” vừa in. Tôi đưa tất cả những tình cảm tốt đẹp và yêu mến của tôi đối với Việt Nam, với những người Việt Nam cao quý vào công trình khiêm tốn này của mình. Tôi muốn biết ý kiến nghiêm túc của anh Thi, rất hi vọng rằng những ý kiến này giúp tôi tìm hiểu tốt hơn về đất nước Việt Nam, để trong tương lai, khi tái bản cuốn sách, tôi có thể sửa những thiếu sót.
Mỗi khi gặp các bạn Việt Nam, tôi thường hỏi về anh Thi, tôi muốn biết anh có khỏe không, công việc sáng tác diễn ra như thế nào.
Tôi nhớ anh Thi, người bạn quý mến của tôi, hết lòng yêu mến anh Thi. Chúc anh Thi mạnh khỏe, chúc hai con anh Thi, hai chim con tuyệt vời, lớn lên và khỏe mạnh.
Ôm hôn thật chặt
Thân ái,
Roman Karmen”.
Sau khi hoàn thành bộ phim “Việt Nam trên con đường thắng lợi” Karmen tiếp tục nhận được những bức thư ở Việt Nam gửi đến Mátxcova. Nhà đạo diễn nổi tiếng Liên Xô rất thích đọc đi đọc lại một bức thư ngắn của một đồng sự Việt Nam:

“Anh Karmen đã đi bộ hàng chục cây số để ghi lại những tài liệu tốt. Anh Karmen và 2 nhà quay phim Liên Xô khác đã làm việc cả ngày lẫn đêm để phản ánh chính xác và thật sự cuộc đấu tranh của nhân dân chúng tôi. Nhiều khó khăn, mưa, thiếu phương tiện đi lại và những gian nan khác không làm nao núng tinh thần và ý chí của anh Karmen và 2 người đồng sự, ý chí sắt đá của những người Liên Xô”.

Những lời lẽ từ một nhà điện ảnh Việt Nam này là đánh giá cao nhất về kì công sáng tác của Karmen, Esurin và Mukhin.
Những trang sử vàng
Vũ khí Liên Xô dành cho các chiến sĩ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam
Thảo luận