Việt Nam ‘chốt’ siêu dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam hơn 67 tỷ USD
© Ảnh : TTXVN - Bùi Doãn TấnQuốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
© Ảnh : TTXVN - Bùi Doãn Tấn
Đăng ký
Có 443/454 đại biểu tán thành, 7 đại biểu không tán thành và 4 vị đại biểu không biểu quyết khi bấm nút quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Như vậy, sau 18 năm chuẩn bị kỹ lưỡng, tham khảo kinh nghiệm nhiều nước phát triển, đến hôm nay, Quốc hội Việt Nam đã chính thức thông qua chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam với tổng vốn lên tới hơn 1,7 triệu tỷ đồng (hơn 67 tỷ USD).
Quốc hội đồng ý đầu tư siêu dự án hơn 67 tỷ USD
Hôm nay, chủ trương đầu tư siêu dự án đường sắt cao tốc Bắc-Nam với sơ bộ tổng mức đầu tư 1.713.548 tỷ đồng đã được Quốc hội thông qua với 443/454 đại biểu tán thành, 7 đại biểu không tán thành và 4 vị đại biểu không tiến hành biểu quyết.
Như vậy, Quốc hội đã quyết định chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam theo hình thức đầu tư công.
Nghị quyết nêu rõ, dự án có tổng chiều dài tuyến khoảng 1.541 km; điểm đầu tại ga Ngọc Hồi (thủ đô Hà Nội), điểm cuối tại ga Thủ Thiêm (TP.HCM).
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn ĐiệpQuốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
Quốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn Điệp
Đường sắt cao tốc Bắc-Nam sẽ đi qua địa phận 20 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm Thủ đô Hà Nội, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP.HCM.
Toàn tuyến có quy mô đường đôi khổ 1.435 mm, tốc độ thiết kế 350 km/h, tải trọng 22,5 tấn/trục; 23 ga hành khách, 5 ga hàng hóa; phương tiện, thiết bị; đường sắt tốc độ cao vận chuyển hành khách, đáp ứng yêu cầu lưỡng dụng phục vụ quốc phòng, an ninh, có thể vận tải hàng hóa khi cần thiết.
Đây là dự án đầu tư công, áp dụng công nghệ đường sắt chạy trên ray, điện khí hóa; bảo đảm hiện đại, đồng bộ, an toàn và hiệu quả.
Sơ bộ tổng nhu cầu sử dụng đất của dự án khoảng 10.827 ha, gồm đất trồng lúa khoảng 3.655 ha, đất lâm nghiệp khoảng 2.567 ha và các loại đất khác theo quy định của pháp luật về đất đai khoảng 4.605 ha.
Trong đó đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên khoảng 3.102 ha, rừng đặc dụng khoảng 243 ha, rừng phòng hộ khoảng 653 ha, rừng sản xuất khoảng 1.671 ha. Sơ bộ số dân tái định cư khoảng 120.836 người.
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn ĐiệpQuốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
Quốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn Điệp
Về vốn, sơ bộ tổng mức đầu tư của dự án là 1.713.548 tỷ đồng (hơn 67,34 tỷ USD), nguồn vốn ngân sách nhà nước bố trí trong các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn và nguồn vốn hợp pháp khác.
Quốc hội quyết định tiến độ thực hiện là lập báo cáo nghiên cứu khả thi từ năm 2025, phấn đấu cơ bản hoàn thành dự án năm 2035.
Cơ chế đặc thù
Với nghị quyết này, Quốc hội cũng quyết định 19 cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt cho dự án.
Theo đó: “Trong quá trình thực hiện dự án, Thủ tướng Chính phủ được quyết định phát hành trái phiếu Chính phủ để bổ sung dự toán và kế hoạch đầu tư hằng năm cho dự án trong trường hợp dự toán ngân sách nhà nước bố trí hằng năm không đáp ứng tiến độ”.
Thủ tưởng cũng được trao quyền huy động vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn vay ưu đãi nước ngoài để thực hiện dự án và không phải lập Đề xuất dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài; áp dụng theo quy định của nhà tài trợ nước ngoài trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định hoặc đã có quy định nhưng khác với quy định của nhà tài trợ nước ngoài.
Sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương hằng năm (nếu có) và các nguồn vốn hợp pháp khác cho dự án trong trường hợp dự toán ngân sách nhà nước bố trí hàng năm không đáp ứng tiến độ. Việc sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi không phải thực hiện theo thứ tự ưu tiên theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn ĐiệpQuốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
Quốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn Điệp
Nghị quyết cho phép dự án được bố trí vốn qua các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn, mức vốn bố trí mỗi kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn phù hợp với tiến độ thực hiện dự án và không giới hạn phần vốn chuyển tiếp của Dự án sang kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn tiếp theo.
Thủ tướng Chính phủ quyết định điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm vốn ngân sách trung ương giữa các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương để bố trí vốn cho dự án.
Dự án không phải thực hiện việc thẩm định khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công, theo quyết định của Quốc hội.
Ngoài ra, Quốc hội còn chấp thuận nhiều cơ chế đặc thù khác về phát triển, khai thác quỹ đất và giá trị tăng thêm từ đất vùng phụ cận ga đường sắt tốc độ cao, về khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ dự án…
Về phát triển công nghiệp và chuyển giao công nghệ, Nghị quyết giao Chính phủ quy định tiêu chí lựa chọn tổ chức, doanh nghiệp nhà nước được giao nhiệm vụ hoặc doanh nghiệp Việt Nam khác được đặt hàng cung cấp dịch vụ, hàng hóa công nghiệp đường sắt; nghiên cứu, ứng dụng, nhận chuyển giao công nghệ. Tổng thầu, nhà thầu phải ưu tiên sử dụng các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ mà trong nước có thể sản xuất, cung cấp.
Cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư được quyết định việc phân chia dự án thành các dự án thành phần, tiểu dự án khi phê duyệt dự án đầu tư. Việc phân chia dự án thành phần, tiểu dự án không phải áp dụng theo quy định của pháp luật về xây dựng.
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn ĐiệpQuốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
Quốc hội biểu quyết thông qua các luật và nghị quyết
© Ảnh : TTXVN - Nguyễn Văn Điệp
Đáng chú ý, về cơ chế, chính sách bảo đảm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, Quốc hội quy định khi lựa chọn nhà thầu các gói thầu EPC, gói thầu tư vấn sử dụng nhà thầu nước ngoài, thành phần Tổ thẩm định theo quy định của pháp luật về đấu thầu và bổ sung đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán nhà nước.
Ngoài ra, chủ đầu tư có trách nhiệm gửi hồ sơ tổng mức đầu tư đã được hoàn thiện theo báo cáo thẩm định của cấp quyết định đầu tư cho Kiểm toán nhà nước để thực hiện kiểm toán làm cơ sở phê duyệt dự án.
“Kiểm toán nhà nước có trách nhiệm gửi kết quả kiểm toán cho cấp quyết định đầu tư trong thời hạn tối đa không quá 30 ngày, kể từ khi nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị kiểm toán”, Nghị quyết nêu rõ.
Quốc hội cũng đồng ý trong thời gian Quốc hội không họp, Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án, trừ trường hợp điều chỉnh tăng tổng mức đầu tư của dự án.
18 năm chuẩn bị
Báo cáo giải trình trước đó, Chủ nhiệm Ủy Ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết đa số ý kiến của các đại biểu Quốc hội nhất trí cần thiết đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam.
Việc đầu tư dự án đóng vai trò quan trọng trong việc hiện thực hóa chủ trương, định hướng của Đảng, chính sách của Nhà nước, tạo bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, hiện đại hóa kết cấu hạ tầng giao thông.
Về nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, bố trí vốn cho từng giai đoạn của dự án để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, Quốc hội đề nghị bổ sung đánh giá kỹ lưỡng về tác động của việc đầu tư dự án đến bội chi ngân sách nhà nước, nợ công và khả năng trả nợ của ngân sách trong trung và dài hạn.
Có ý kiến cho rằng dự án trải qua 3 kỳ trung hạn, vì vậy tổng mức đầu tư được duyệt giai đoạn nào thì chỉ tính trong giai đoạn đó, phần vốn được thực hiện giai đoạn nào thì tính vốn vào kỳ trung hạn đó và không nên chuyển từ kỳ trung hạn trước qua kỳ trung hạn sau.
Về nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nêu rõ dự án kéo dài qua 3 kỳ trung hạn, khả năng cân đối vốn, bố trí vốn để thực hiện dự án.
Cụ thể giai đoạn 2021 - 2025, nhu cầu vốn cho dự án khoảng 538 tỉ đồng (sử dụng cho công tác chuẩn bị đầu tư) đã được cân đối trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ Giao thông vận tải. Giai đoạn 2026 - 2030, nhu cầu vốn khoảng 841.707 tỉ đồng và giai đoạn 2031 - 2035, nhu cầu vốn khoảng 871.302 tỉ đồng.
Theo Luật Đầu tư công năm 2019, hiện nay đánh giá khả năng cân đối nguồn vốn chỉ có thể thực hiện theo kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm, phần chuyển tiếp sang giai đoạn sau không quá 20% kế hoạch đầu tư công giai đoạn trước.
Dự án kéo dài qua 3 kỳ trung hạn nên việc xác định khả năng cân đối vốn là chưa có quy định. Do đó, tại dự thảo Nghị quyết đã quy định Dự án được bố trí vốn qua các kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn, mức vốn bố trí mỗi kỳ trung hạn phù hợp với tiến độ thực hiện dự án và không phải thực hiện việc thẩm định khả năng cân đối vốn theo quy định của Luật Đầu tư công.
Có ý kiến đề nghị tính toán, kỹ lưỡng tất cả các yếu tố và rủi ro để có giải pháp khả thi, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Thống nhất với đa số ý kiến các vị đại biểu về sự cần thiết đầu tư dự án, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhận định thực tế dự án đã được nghiên cứu, chuẩn bị đầu tư trong thời gian khá dài (khoảng 18 năm) và tham khảo kinh nghiệm tại một số quốc gia có phát triển đường sắt tốc độ cao trên thế giới để hoàn thiện báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
“Trong đó, đã phân tích, tính toán với kết quả dự báo nhu cầu vận tải, tiềm lực, vị thế Việt Nam hiện nay là điều kiện thích hợp để triển khai đầu tư dự án”, ông Thanh nhấn mạnh Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận rất kỹ lưỡng về chủ trương đầu tư, các yếu tố, điều kiện để triển khai dự án.
Tuy nhiên, các tính toán tại bước nghiên cứu tiền khả thi mới chỉ mang tính sơ bộ. Do đó đề nghị trong bước nghiên cứu khả thi dự án, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên quan tiếp tục tính toán cụ thể, đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố, rủi ro để có giải pháp phù hợp nhằm bảo đảm tính khả thi cho dự án.