Tại sao Việt Nam chia tách và sáp nhập tỉnh thành nhiều lần?
22:23 03.03.2025 (Đã cập nhật: 22:25 03.03.2025)
Đăng ký
Từ sau năm 1975, Việt Nam đã trải qua nhiều lần chia tách và sáp nhập các tỉnh nhằm tối ưu hóa quản lý hành chính. Hiện nay, việc sáp nhập tỉnh tiếp tục được xem xét để tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả phát triển.
Việc các đơn vị hành chính chia tách hay sáp nhập có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên tắc chính trị luôn đảm bảo: "Đảng hoạch định đường lối chính trị, tổ chức và cán bộ phải phục vụ đường lối chính trị đó".
Nhiều lần chia tách
Thời điểm hiện tại, Việt Nam có 63 tỉnh, thành phố (trong đó có 57 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng và Cần Thơ). Kể từ khi thống nhất đất nước năm 1975 đến nay, Việt Nam đã trải qua 9 lần chia tách, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh.
VTC dẫn lời TS. Nguyễn Sĩ Dũng, Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết, dưới thời vua Minh Mạng (1820-1841), có 31 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Dưới cấp tỉnh có phủ, huyện và xã. Mô hình này phù hợp với bối cảnh chính trị thời phong kiến, đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội nông thôn cũng như duy trì trật tự trong xã hội có cấu trúc phân cấp rõ ràng.
Khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam những năm 1858-1885, mô hình hành chính của đất nước được cải tổ theo hướng hoàn toàn khác để phục vụ cho mục đích khai thác kinh tế và quản lý thuộc địa của nhà cầm quyền.
Dưới thời Pháp thuộc, Việt Nam khi đó được chia thành 58 tỉnh theo 3 vùng địa lý (Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ), nhằm tối ưu hóa công tác quản lý và khai thác nguồn lực.
"Ngay sau khi đất nước thống nhất, Nhà nước chủ trương sáp nhập các tỉnh để hình thành các đơn vị hành chính có quy mô đủ lớn, thuận lợi cho phát triển kinh tế, quy hoạch hạ tầng và tổ chức sản xuất. Đến năm 1978, cả nước chỉ còn 38 tỉnh, nhằm tối ưu hóa nguồn lực và tăng cường sự kiểm soát tập trung trong bối cảnh xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa", TS. Nguyễn Sĩ Dũng cho biết.
Tuy nhiên, trong quá trình vận hành, nhiều tỉnh rộng lớn bắt đầu đối mặt với khó khăn trong công tác quản lý hành chính, điều hành kinh tế - xã hội và cung cấp dịch vụ công.
Điều này càng trở nên đặc biệt rõ khi Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, đòi hỏi một hệ thống quản lý linh hoạt hơn, gần dân hơn và phù hợp với đặc điểm từng địa phương.
Từ thực tiễn đó, từ cuối những năm 1980 đến 1990, Nhà nước đã bắt đầu chia tách các tỉnh, dần hình thành con số 63 tỉnh, thành như hiện nay.
Về mặt tích cực, khi tách nhỏ các tỉnh, mức tăng trưởng GDP trung bình của nhiều tỉnh được cải thiện (đặc biệt là những tỉnh có quy mô nhỏ hơn), đạt khoảng 8-9%/năm, vượt trội hơn so với mức tăng trưởng trung bình toàn quốc vào khoảng 6-7%/năm, theo số liệu Tổng Cục thống kê trong giai đoạn 2000-2010.
Chẳng hạn, tại tỉnh Bình Dương, GDP bình quân đầu người đã tăng từ mức khoảng 1.000 USD (năm 2000) lên hơn 3.000 USD (năm 2010).
Trong quá trình cải cách hành chính, số lượng các dự án đầu tư FDI tại các tỉnh cũng tăng lên một cách đáng kể, như một số báo cáo đã chỉ ra mức tăng 30-50% so với giai đoạn trước đó.
"Những số liệu này minh chứng rằng, khi được quản trị theo quy mô phù hợp, các tỉnh có thể nhanh chóng đưa ra những chính sách phát triển đúng hướng. Từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ, cải thiện đời sống Nhân dân và góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc gia", ông Dũng phân tích.
Theo ông, mỗi mô hình phân chia cấp tỉnh đều có thời điểm. Dù việc chia tách tỉnh mang lại nhiều kết quả tích cực, nhưng đến nay, nhiều yếu tố thay đổi đáng kể đã khiến cho việc sáp nhập các tỉnh trở thành yêu cầu cần thiết.
Chủ trương sáp nhập tỉnh có mục tiêu chính là tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tối ưu hóa nguồn lực phát triển. Việc duy trì quá nhiều tỉnh khiến bộ máy hành chính vừa cồng kềnh, vừa tốn kém, trong khi nhiều tỉnh có quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế, khó thu hút đầu tư lớn và thiếu liên kết vùng.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng cho biết thêm, số lượng các tỉnh luôn thay đổi, phản ánh nhu cầu và mô hình quản trị của từng thời đại.
“Nếu như lần đầu sáp nhập, Nhà nước mong muốn có các tỉnh đủ lớn để phát triển kinh tế, còn khi chia tách là để phù hợp với năng lực quản lý, thì lần sáp nhập này nhằm tinh giản bộ máy, giảm bớt tầng nấc trung gian và nâng cao hiệu quả quản trị quốc gia”, ông Dũng nói.
Nguyên tắc chính trị
Về vấn đề này, nguyên Vụ trưởng Vụ cơ sở Đảng (Ban Tổ chức Trung ương) Nguyễn Đức Hà cho biết, nhiều ý kiến dư luận đặt câu hỏi: "Vì sao trước đây tách tỉnh, nay lại nhập lại?".
Lý giải, ông Hà cho biết, việc các đơn vị hành chính chia tách hay sáp nhập có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên tắc chính trị luôn đảm bảo: "Đảng hoạch định đường lối chính trị, tổ chức và cán bộ phải phục vụ đường lối chính trị đó".
"Khi có đường lối phải thiết lập bộ máy của tổ chức chính trị như thế nào cho phù hợp. Có bộ máy rồi thì phải đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ. Bộ máy tổ chức và đội ngũ cán bộ phải phục vụ, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, mà nhiệm vụ chính trị thì mỗi giai đoạn cách mạng sẽ khác nhau", ông Hà cho biết,
Theo ông Nguyễn Đức Hà, sau ngày thống nhất đất nước, khi cán bộ muốn từ Hà Nội lên Sơn La công tác phải đi trước một ngày để nghỉ ngơi, tắm giặt, sáng hôm sau mới làm việc.
Ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, thủ phủ từ tỉnh này sang tỉnh kia chỉ dưới 50km. Chẳng hạn, từ UBND TP. Cần Thơ sang đến UBND tỉnh Vĩnh Long chỉ khoảng 40km, nhờ đó dễ quản lý.
"Người ta nói vui rằng đặt trụ sở thế nào để khoảng cách pháo bắn pháo được từ điểm này đến điểm kia là vừa. Rõ ràng thời điểm đó, đường xá khó khăn, phương tiện khó khăn, thông tin liên lạc khó khăn, trình độ cán bộ cũng hạn chế. Nếu tỉnh lớn quá thì khó quản lý, rất vất vả", ông Hà phân tích thêm.
Trong khi đó, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với tình hình mới.
Trước đây, khi khoảng cách về hạ tầng giao thông, liên lạc còn hạn chế, các tỉnh nhỏ có thể phát huy tính tự chủ địa phương, song lại khó khăn trong việc đồng bộ hóa các chính sách toàn quốc và tối ưu hóa nguồn lực.
"Hiện nay, hạ tầng hiện đại, phương tiện đa dạng, trình độ cán bộ được nâng cao cùng sự phát triển của công nghệ thông tin, khoảng cách giữa trung tâm và địa phương gần như không còn là rào cản, cho phép Trung ương có thể giám sát và điều phối hiệu quả ngay cả khi các tỉnh được sáp nhập thành những đơn vị hành chính có quy mô lớn", ông Hà khẳng định.
Những thách thức cần giải quyết
TS. Nguyễn Sĩ Dũng chia sẻ, việc sáp nhập tỉnh là chủ trương lớn nhằm tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, để triển khai chủ trương này, theo ông, chắc chắn gặp phải nhiều khó khăn, thách thức.
Theo đó, một trong những rào cản lớn nhất khi sáp nhập tỉnh trước hết là tâm lý ngại thay đổi của cán bộ, công chức và người dân.
Với đội ngũ cán bộ, công chức, việc sáp nhập có thể ảnh hưởng đến vị trí công tác, cơ hội thăng tiến, thậm chí là cắt giảm biên chế. Điều này ít nhiều tạo ra tâm lý lo lắng, thiếu đồng thuận, thậm chí có người phản ứng tiêu cực.
Về phía người dân, sự thay đổi địa giới hành chính có thể ảnh hưởng đến thói quen sinh hoạt, quyền lợi về đất đai, hành chính và dịch vụ công.
Ngoài ra, một thách thức khác liên quan đến yếu tố con người, đó là vấn đề tổ chức bộ máy và bố trí nhân sự.
"Sau khi sáp nhập, các đơn vị hành chính mới cần phải sắp xếp lại bộ máy tổ chức, phân bổ lại nhân sự và điều chỉnh các cơ quan chuyên môn. Việc hợp nhất các sở, ban, ngành, cơ quan cấp tỉnh có thể gây ra những chồng chéo chức năng, gián đoạn công tác, và đòi hỏi quá trình chuyển đổi thích ứng lâu dài", ông Dũng phân tích.
Thách thức tiếp theo là về tài chính và nguồn lực. Việc sáp nhập đòi hỏi nguồn lực lớn để điều chỉnh cơ sở hạ tầng hành chính, đồng bộ hóa hệ thống dữ liệu, thay đổi con dấu, giấy tờ và tổ chức lại các dịch vụ công.
Ông Dũng cho rằng, nếu không có kế hoạch tài chính hợp lý, quá trình chuyển đổi có thể gây lãng phí hoặc làm giảm hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn đầu.
Tiếp đó là thách thức liên quan đến việc ảnh hưởng quyền lợi của địa phương sau sáp nhập. Cụ thể, quá trình sáp nhập, các tỉnh nhỏ có thể lo ngại bị "lép vế" so với các tỉnh lớn hơn về phân bổ ngân sách, đầu tư phát triển hoặc vị thế chính trị. Nếu không có chính sách hợp lý, tình trạng mất cân bằng trong phát triển kinh tế - xã hội có thể xảy ra giữa các khu vực trong tỉnh mới.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng cũng nêu ra một vấn đề khác, đó là việc điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Theo đó, mỗi tỉnh hiện đều có chiến lược phát triển riêng, với quy hoạch tổng thể, chính sách thu hút đầu tư, quy hoạch đô thị, khu công nghiệp… Khi sáp nhập, cần điều chỉnh lại các quy hoạch này sao cho phù hợp với quy mô hành chính mới.
“Nếu không làm tốt, có thể xảy ra tình trạng thiếu đồng bộ, mâu thuẫn trong phát triển, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thu hút đầu tư", ông Dũng cảnh báo.
Ngoài ra, một vấn đề nữa là khó khăn trong việc phân định lại đơn vị hành chính cấp huyện, xã. Theo đó, sau khi sáp nhập tỉnh, việc phân chia lại địa giới hành chính cấp huyện, cấp xã có thể xuất hiện tranh chấp hoặc bất cập trong việc quản lý, cung cấp dịch vụ công. Nếu không giải quyết tốt, có thể dẫn đến khiếu kiện hoặc bất ổn ở một số khu vực.
TS. Nguyễn Sĩ Dũng cũng đề cập đến những khó khăn về khác biệt giữa các địa phương. Lý do, mỗi tỉnh thành đều có đặc điểm lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội riêng. Khi sáp nhập, khác biệt này có thể dẫn đến những xáo trộn trong quản lý, điều hành và đời sống người dân.
Chẳng hạn, phong tục tập quán, mô hình phát triển kinh tế, thậm chí là cả cách thức quản lý hành chính giữa các tỉnh cũng có thể không đồng nhất, gây ra khó khăn trong việc thống nhất cơ chế vận hành.
"Để quá trình sáp nhập tỉnh diễn ra suôn sẻ, cần có kế hoạch rõ ràng, lộ trình thực hiện hợp lý, cơ chế giám sát chặt chẽ và chính sách hỗ trợ phù hợp cho các địa phương, cán bộ công chức và người dân. Quan trọng nhất là tạo được sự đồng thuận trong toàn xã hội để bảo đảm thành công của chủ trương này", ông Dũng nhấn mạnh.