Việt Nam tiến vào top nền kinh tế thế giới nhưng đừng để bị “thôi miên”
Những thành tựu kinh tế của Việt Nam trong bối cảnh hiện tại đã cho các tổ chức quốc tế thấy rõ khả năng hồi phục, từ đó khiến họ đưa ra những dự báo lạc quan hơn mục tiêu mà Việt Nam đề ra.
SputnikTuy nhiên, dù có quy mô kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện chỉ đứng thứ 6 trong khối ASEAN. Chuyên gia cảnh báo, Việt Nam không nên để bị "thôi miên" bởi quy mô kinh tế.
Triển vọng tươi sáng của nền kinh tế Việt Nam
Theo dữ liệu mới nhất của IMF, năm 2023, GDP (PPP) của Việt Nam đạt 1.438 tỉ USD, xếp thứ 25/192 trên thế giới. Trong khi đó, GDP bình quân (PPP) đầu người VN đạt 14.342 USD, xếp thứ 108/192 trên thế giới.
IMF dự báo, giai đoạn 2024 - 2029, quy mô
GDP (PPP) và GDP bình quân (PPP) đầu người Việt Nam sẽ liên tục cải thiện thứ hạng trên bảng xếp hạng thế giới. Hết năm nay, GDP (PPP) Việt Nam được dự báo đạt 1.559 tỉ USD, xếp thứ 25/192 trên thế giới; GDP bình quân (PPP) đầu người được dự báo đạt 15.470 USD, xếp thứ 107/192.
Đặc biệt, quy mô GDP (PPP) Việt Nam hiện xếp dưới Úc, Ba Lan nhưng được dự báo sẽ vượt qua hai nước này vào năm 2029 với con số tuyệt đối đạt khoảng 2.343 tỉ USD. Như vậy, Việt Nam sẽ bước vào top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới sau 5 năm nữa, vào cùng top với Trung Quốc, Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Indonesia, Đức, Nga, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Pháp, Mexico, Ý, Hàn Quốc, Ả Rập Xê Út, Tây Ban Nha, Canada, Ai Cập và Bangladesh.
Dự báo của IMF vượt xa so với báo cáo nghiên cứu "The World in 2050" (Thế giới năm 2050) của Công ty PricewaterhouseCoopers (PwC) đưa ra hồi năm 2017. Theo PwC, đến năm 2050, GDP tính theo PPP của Việt Nam đạt 3.176 tỉ USD, đứng thứ 20 thế giới, vượt qua con số 3.115 tỉ USD của Ý (thứ 21), 3.100 tỉ USD của Canada (thứ 22), hay 2.782 tỉ USD của Thái Lan (thứ 25). Như vậy, trong mắt IMF, Việt Nam có thể rút ngắn gần 30 năm để đạt cột mốc này.
Theo TS. Võ Trí Thành, đến khi kết thúc năm 2023, kinh tế thế giới vẫn phục hồi yếu và không đồng đều giữa các nền kinh tế chủ chốt. Hoạt động sản xuất, từ sản lượng công nghiệp đến đầu tư và thương mại quốc tế đều giảm.
Cùng với đó, bất ổn địa chính trị gia tăng, lạm phát giảm chậm khiến cho hầu hết các nước vẫn phải tiếp tục thực hiện thắt chặt tiền tệ. Nhiều tổ chức dự báo
kinh tế thế giới năm nay và cả năm tới vẫn phục hồi yếu và đối mặt với nhiều rủi ro.
Nguyên nhân được cho là thách thức lớn từ những diễn biến phức tạp hậu Covid-19 và bất ổn địa chính trị vẫn còn. Riêng Việt Nam vẫn duy trì ổn định vĩ mô, lạm phát không quá cao và tốc độ phục hồi kinh tế đang khá tốt. GDP quý 2/2024 đạt 6,93%, vượt kịch bản tại Nghị quyết 01 của Chính phủ đề ra (5,5 - 6%). Điều này đã cho các tổ chức quốc tế thấy rõ khả năng hồi phục và đưa ra những dự báo lạc quan hơn mục tiêu mà Việt Nam đề ra, tăng trưởng cả năm vào khoảng 7%.
"GDP tăng trưởng cho thấy quy mô nền kinh tế đã lớn hơn nhiều, phản ánh sự phục hồi và cái nhìn tích cực về triển vọng kinh tế Việt Nam. Có thể thấy, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã tăng hơn 100 lần trong 4 thập niên, từ 4 tỉ USD lên 430 tỉ USD vào năm 2023, đưa Việt Nam vào nhóm các nước trung bình cao”, TS. Thành chia sẻ.
Theo ông, phát triển ổn định, thu hút đầu tư lớn sẽ là tiền đề căn cơ để Việt Nam đạt mục tiêu thành nước phát triển vào năm 2045. Điều này cũng giúp Việt Nam từng bước thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực.
Việt Nam có nhiều lợi thế để duy trì tăng trưởng 7%/năm
PGS.TS. Võ Đại Lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và chính trị thế giới, cho rằng Việt Nam đang có nhiều cơ hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sau khi trở thành đối tác chiến lược của nhiều quốc gia lớn.
Đây là cơ hội chưa từng có, cho phép hàng hóa Việt Nam tăng tốc
xuất khẩu sản phẩm ra thị trường toàn cầu. Đồng thời, nó cũng mở ra cơ hội thu hút dòng vốn FDI nước ngoài.
Trong bối cảnh các tập đoàn đa quốc gia áp dụng chính sách đầu tư "Trung Quốc + 1", Việt Nam là một điểm đến khá hấp dẫn. Bản thân Việt Nam có vị thế về cả chính trị lẫn kinh tế mà nhiều nước muốn tranh thủ làm đối tác.
Dân chứng, ông Lược cho biết,
Hàn Quốc chỉ trong vòng 25 năm đã đưa đất nước phát triển mạnh, người dân có thu nhập cao với mức bình quân tăng vọt. Việt Nam cũng hoàn toàn có cơ hội để làm được điều này.
"Chúng ta có nhiều lợi thế để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ ở mức 7%/năm. Nếu duy trì được điều này trong vài chục năm tới thì quy mô nền kinh tế sẽ ở mức rất lớn và khả năng vượt qua nhiều nước như IMF dự báo cũng có thể đạt được. Khi đó thu nhập của người dân cũng sẽ tăng hơn nhiều, có thể bước vào nhóm quốc gia có thu nhập cao", báo Thanh niên dẫn lời PGS.TS. Võ Đại Lược.
Cùng quan điểm trên, TS. Đinh Thế Hiển cho biết, trong những năm gần đây, kinh tế thế giới khó khăn đã ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam. Tình hình trong nước cũng đang gặp khó khăn ở một số lĩnh vực như bất động sản, ngân hàng.
Tuy nhiên, kinh tế đã từng bước ổn định và đến năm 2026 chắc chắn sẽ tăng tốc mạnh hơn khi các vướng mắc được xử lý. Các ngành sản xuất kinh doanh đã bắt đầu hồi phục và tăng trưởng, là động lực chính cho tăng trưởng giai đoạn tới của kinh tế Việt Nam theo hướng bền vững.
TS. Đinh Thế Hiển kỳ vọng tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm của Việt Nam sẽ đạt khoảng 7%/năm và có thể được duy trì ít nhất trong hơn 10 - 15 năm tới.
"Tăng trưởng của nền kinh tế nhờ hoạt động sản xuất, mang lại giá trị gia tăng cao hơn và ngày càng theo hướng chất lượng. Nếu nhìn về Trung Quốc đã có khoảng 45 năm phát triển với mức tăng bình quân 6 - 7%/năm thì Việt Nam có nhiều điểm tương tự, nhưng thời gian phát triển chỉ mới khoảng 30 năm. Đáng chú ý, tăng trưởng kinh tế giống như lãi suất kép thì càng về sau, quy mô GDP sẽ rất lớn. Bước vào top 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới cũng không phải điều lạ", ông Hiển nói.
Không bị “thôi miên” bởi quy mô kinh tế
Dù có quy mô kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện chỉ đứng thứ 6 trong khối
ASEAN, sau Singapore, Brunei, Malaysia, Thái Lan và Indonesia.
GDP bình quân đầu người của Singapore cao gấp 16 lần của Việt Nam, trong khi GDP bình quân đầu người của Brunei cũng cao gấp 8 lần. Một trong những nguyên nhân là dù quy mô kinh tế Việt Nam vượt qua những nước này, nhưng bình quân đầu người lại thua xa vì dân số đông hơn nhiều. Hơn nữa, GDP bình quân đầu người là tính chung cả phần làm ra của khối doanh nghiệp nước ngoài.
Về điều này, báo Thanh niên dẫn lời PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, lưu ý không nên bị "thôi miên" bởi quy mô. Quy mô kinh tế Việt Nam tăng trưởng là điều đáng mừng, nhưng cần chú ý đến khía cạnh cơ cấu, chất lượng của nền kinh tế được cải thiện như thế nào.
Theo đó, cách tiếp cận hiện nay về những thay đổi đẳng cấp mang tính đột phá, tạo ra bứt phá của Việt Nam, đặc biệt là đối với khu vực nội địa vẫn còn chưa rõ, chưa mạnh. Trong quy mô kinh tế, cần tính đến cơ cấu theo hướng: phần của người Việt phải chiếm tỷ trọng tương xứng. Trong khi đó, xu thế phụ thuộc vào phần khối ngoại của Việt Nam lại đang khá cao. Do đó, nền kinh tế phồng to về quy mô nhưng chất lượng không tăng tương xứng.
Phần lợi ích được hưởng cho
thị trường nội địa chậm, ít và vấn đề này ngày càng rõ ràng, nghiêm trọng. Một trong những biểu hiện rõ nhất là GDP của Việt Nam tăng nhưng có phần lợi nhuận trả cho đầu tư nước ngoài rất lớn. Trừ đi phần đó thì GNP (tổng thu nhập của người dân) còn lại rất ít.
Theo chuyên gia, chiến lược phát triển càng làm giãn GDP và GNP thì càng đáng lo ngại về dài hạn. Như vậy, ngân sách có thể ổn, con số GDP có thể tốt, nhưng đời sống người dân và sức khỏe của doanh nghiệp Việt Nam lại không cải thiện nhiều. Đây là điều đặc biệt phải chú ý.
TS. Trần Đình Thiên cho rằng, Việt Nam không kiềm chế hay phân biệt đối xử khu vực
FDI, thương mại quốc tế, nhưng cần phải tạo cơ hội cho khu vực nội địa bứt lên nhiều hơn nữa. Nếu cứ theo đuổi mở rộng độ lớn về quy mô nhưng khu vực nội địa vẫn chậm, vẫn yếu thì sẽ dẫn tới sự mất cân đối, rủi ro nhiều hơn thành công trong tương lai. Đặc biệt, khi thế giới đang thay đổi cấu trúc rất mạnh, nếu Việt Nam bị thôi miên bởi quy mô thì sẽ kéo theo nhiều hệ quả không tốt cho chất lượng nền kinh tế.
Theo chuyên gia, muốn doanh nghiệp Việt bứt phá thì phải có động cơ khuyến khích, phải đảm bảo được môi trường cạnh tranh tự do hơn,
doanh nghiệp tư nhân được tiếp cận nhiều cơ hội hơn. Khi doanh nghiệp Việt đã lớn mạnh hơn thì khuyến khích họ tham gia nhiều hơn vào chuỗi sản xuất, kinh doanh từ khu vực FDI với tầm nhìn trung hạn, chứ không chỉ hô hào qua các chính sách ngắn hạn.
“Mặt khác, phải kiến thiết những chuỗi kinh tế do các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Việt Nam "cầm cái", như vậy mới tăng thêm cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của VN tiếp cận. Mỗi ngành phải có ít nhất 1 - 2 "đại bàng" Việt để đồng hành với các "đại bàng" ngoại. Nếu cứ để khu vực nội địa yếu, đẳng cấp thấp thì không nên", TS. Trần Đình Thiên phân tích.